Đổi mới cơ chế hoạt động Khoa học và Công nghệ
08/11/2012Trong những năm qua, mặc dù đạt được nhiều thành tựu đáng ghi nhận, nhưng kết quả hoạt động Khoa học và Công nghệ (KH&CN) nước ta vẫn chưa đáp ứng được vai trò quốc sách hàng đầu của sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội đất nước. Để KH&CN thực sự trở thành động lực then chốt, vừa qua Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 6 khóa XI đã ban hành Nghị quyết về "Phát triển KH&CN phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế".
Tại kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XIII, Quốc hội cũng sẽ cho ý kiến về Dự án Luật Khoa học và Công nghệ (sửa đổi). Để cung cấp thêm thông tin, tư liệu cho các đại biểu Quốc hội và cử tri cả nước, Báo Đại biểu nhân dân trân trọng giới thiệu loạt bài viết của Bộ trưởng Bộ KH&CN Nguyễn Quân về các nội dung trọng tâm của Dự án Luật Khoa học và Công nghệ. Các bài viết đề cập đến 3 vấn đề lớn: đổi mới phương thức đầu tư xã hội cho KH&CN; đổi mới cơ chế tài chính cho hoạt động KH&CN; và chính sách sử dụng, trọng dụng cán bộ KH&CN, được đăng tải liên tiếp trên các số báo từ ngày 05- 07/11/2012. Bài 1 Đầu tư cho KH&CN: Huy động mọi nguồn lực để phát triển Tổng đầu tư xã hội cho KH&CN của một quốc gia được tính là tổng kinh phí đầu tư cho hoạt động KH&CN trong một năm từ 3 nguồn: Ngân sách nhà nước (NSNN), hoạt động hợp tác quốc tế (vốn ODA, chương trình hợp tác nghiên cứu…) và đầu tư của khu vực ngoài nhà nước (các thành phần kinh tế, tổ chức và cá nhân, đặc biệt là doanh nghiệp). Trong nền kinh tế kế hoạch hóa thì NSNN đóng vai trò chủ yếu, vì thế mặc dù Việt Nam đã bắt đầu bước vào nền kinh tế thị trường, chúng ta vẫn mang nặng tư duy dựa vào NSNN và cho đến nay nguồn kinh phí từ NSNN vẫn chiếm khoảng 65% đầu tư xã hội cho KH&CN. Từ khi Luật Khoa học và Công nghệ được ban hành năm 2000 đến nay, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm, dành 2% tổng chi NSNN hàng năm (tương đương khoảng 0,5-0,6% GDP) cho KH&CN. Kinh phí thu hút được từ hoạt động hợp tác quốc tế có tăng lên hàng năm thông qua vốn hỗ trợ phát triển ODA và các dự án hợp tác nghiên cứu chung, năm 2011 đã đóng góp khoảng 5% tổng đầu tư xã hội. 30% còn lại là nguồn vốn đầu tư từ khu vực ngoài nhà nước. Tính từ cả 3 nguồn trên, tổng đầu tư của xã hội cho KH&CN trong năm 2011 đạt khoảng 1 tỉ đô la Mỹ, hay khoảng 1% GDP quốc gia. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, quốc gia nào có nền KH&CN càng phát triển thì tỉ trọng đầu tư cho KH&CN của khu vực ngoài nhà nước so với NSNN càng lớn, ví dụ ở các nước phát triển như Châu Âu, Hàn Quốc, Nhật Bản, tỉ trọng này thường là 3:1 đến 4:1. Trung Quốc cũng đã đạt được tỉ trọng 3:1 trong năm 2011. NSNN chỉ đảm bảo tài trợ cho các nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu phục vụ lợi ích chung của quốc gia. Điều này đơn giản là vì, dù được Nhà nước quan tâm đến đâu hay hoạt động hợp tác quốc tế tích cực thế nào, thì nguồn lực của cả 2 thành phần này đều có giới hạn, không thể so sánh với tiềm lực dồi dào của khu vực ngoài nhà nước, đặc biệt là của khối doanh nghiệp. Sở dĩ cho đến nay, đầu tư của NSNN vẫn còn chiếm tỉ trọng lớn trong tổng đầu tư cho KH&CN là do tư duy bao cấp, kế hoạch hóa vẫn còn nặng nề trong nền kinh tế, đặc biệt là trong khối các doanh nghiệp nhà nước. Đầu tư cho KH&CN để đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, hàng hóa chưa gắn liền với lợi ích thiết thân của doanh nghiệp. Nhà nước cũng chưa có chính sách thích hợp để doanh nghiệp phải đầu tư cho phát triển KH&CN. Từ góc độ hợp tác quốc tế, tư duy dựa vào viện trợ, tài trợ của nước ngoài trong hoạt động KH&CN đã đến lúc phải được đổi mới bằng tư duy cùng đầu tư và hợp tác nghiên cứu nhằm thu hút nhiều hơn nguồn đầu tư từ nước ngoài. Làm thế nào để huy động đầu tư xã hội cho KH&CN Để huy động đầu tư xã hội cho KH&CN, cần phải có những giải pháp mạnh mẽ để tăng cường đầu tư từ cả 3 nguồn kể trên. Trước hết, với đầu tư từ NSNN, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 khóa XI đã yêu cầu: duy trì mức tối thiểu 2% tổng chi Ngân sách hàng năm dành cho KH&CN và phấn đấu nâng cao tỉ lệ này khi điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước tốt hơn. Mặc dù có giá trị tuyệt đối không lớn (khoảng 14.000 tỉ đồng cho năm 2012), nhưng 2% tổng chi NSNN dành cho KH&CN là một tỉ lệ khá cao, thậm chí so với các nước có nền KH&CN phát triển (ngay cả các quốc gia như Mỹ, Nhật bản, Châu Âu, tỉ lệ này cũng chỉ 0,3 - 0,4% GDP quốc gia). Điều này thể hiện sự quan tâm và cố gắng rất lớn của Đảng và Nhà nước ta đối với KH&CN. Ngay cả khi duy trì ngân sách dành cho KH&CN ở mức 2% thì giá trị tuyệt đối của khoản kinh phí này cũng được tăng lên hàng năm tương ứng với mức tăng của tổng chi NSNN (trung bình 16,5%/năm cho những năm gần đây). Chúng ta sẽ tập trung nguồn NSNN cho nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu cơ bản định hướng ứng dụng và triển khai các chương trình quốc gia về KH&CN đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, chú trọng các sản phẩm quốc gia, các nhiệm vụ do Nhà nước đặt hàng và đổi mới phương thức cấp kinh phí hoạt động thường xuyên theo nhiệm vụ cho các tổ chức KH&CN công lập. Đối với hoạt động hợp tác quốc tế, sau khi gia nhập WTO và vượt qua ngưỡng quốc gia kém phát triển, Chính phủ đã quan tâm hơn đến các hoạt động hợp tác nghiên cứu với các đối tác nước ngoài. Chúng ta đã chủ động sử dụng kinh phí từ nguồn ngân sách sự nghiệp khoa học để đối ứng cho các nhiệm vụ hợp tác nghiên cứu với đối tác nước ngoài thông qua các đề tài nghiên cứu chung theo Nghị định thư. Đây là một chủ trương đúng đắn và phù hợp với sự thay đổi trong chính sách sử dụng ODA của các nước phát triển. Các quốc gia này đang chuyển dần sang hướng hỗ trợ cho KH&CN và giảm dần hình thức tài trợ hoàn toàn, đòi hỏi sự hợp tác bình đẳng, cùng chia sẻ trách nhiệm để cùng có lợi. Đối với ta, trong hợp tác và hội nhập quốc tế theo chiều sâu, cần có kinh phí của mình để chủ động trong việc đặt vấn đề hợp tác, trong đàm phán, trong tìm kiếm đối tác để giải quyết những vấn đề của Việt Nam một cách hiệu quả nhất. Kết quả là trong 5 năm từ 2006 - 2010, thông qua các nhiệm vụ theo Nghị định thư, số kinh phí phía đối tác bỏ ra để cùng thực hiện với ta đạt 128 triệu đô la Mỹ, trong khi số kinh phí đối ứng cấp từ ngân sách sự nghiệp khoa học là gần 365 tỷ VND (khoảng 19,2 triệu USD). Theo tỷ lệ này, 1 đồng kinh phí ta bỏ ra, huy động được 6,6 đồng của đối tác. Số kinh phí này chưa bao gồm các khoản “phi tiền tệ” khác Việt Nam được thụ hưởng như đào tạo tiến sĩ và thạc sĩ Việt Nam ở nước ngoài, các trang thiết bị nghiên cứu được để lại cho các đơn vị Việt Nam khi kết thúc dự án. Vì vậy, khai thác nguồn vốn đầu tư nước ngoài cho hoạt động KH&CN sẽ tiếp tục là giải pháp quan trọng trong giai đoạn tới. Đầu tư từ doanh nghiệp là yếu tố quyết định Mặc dù đầu tư từ NSNN và hoạt động hợp tác quốc tế trước mắt vẫn có tỉ trọng lớn trong tổng đầu tư xã hội, nhưng khối các doanh nghiệp mới là khu vực có nhiều tiềm lực và tiềm năng nhất để thu hút đầu tư cho KH&CN. Hiện nay, nước ta có hơn 600.000 doanh nghiệp, trong đó có 111 tập đoàn kinh tế và tổng công ty nhà nước với nguồn lực rất lớn về vốn và nguồn nhân lực (năm 2008, khi xây dựng Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp, Bộ Tài chính đã tính toán rằng, nếu tất cả các doanh nghiệp Việt Nam đều trích 10% lợi nhuận trước thuế để thành lập quỹ phát triển KH&CN của doanh nghiệp, thì tổng vốn các quỹ này thu hút được là 13.500 tỉ đồng, gấp 2 lần đầu tư từ NSNN năm 2008 (7.000 tỉ đồng). Như vậy, chỉ cần tất cả các doanh nghiệp trích 10% thu nhập trước thuế để đầu tư cho KH&CN, chúng ta đã có thể hoàn thành mục tiêu tổng đầu tư xã hội cho KH&CN đạt 1,5% GDP vào năm 2010). Ngoài ra, trong khi phần lớn kinh phí NSNN được dành cho chi thường xuyên của các tổ chức nghiên cứu và phát triển công lập và chi đầu tư phát triển, chỉ có hơn 10% là thực sự dành cho hoạt động nghiên cứu, thì tỉ lệ này ở các doanh nghiệp gần như là 100% cho hoạt động nghiên cứu và phát triển do không phải chi thường xuyên (lương và hoạt động bộ máy) từ nguồn dành cho KH&CN. Việc chi tiêu cho KH&CN từ nguồn vốn của doanh nghiệp cũng thuận lợi hơn rất nhiều so với sử dụng NSNN, vốn được quản lý rất chặt chẽ theo Luật NSNN với nhiều thủ tục phức tạp. Hơn thế nữa, việc tham gia vào nền kinh tế thị trường trong bối cảnh toàn cầu hóa ngày càng sâu rộng đòi hỏi các doanh nghiệp phải tích cực đầu tư đổi mới công nghệ nhằm nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm, hàng hóa. Chính vì những lý do đó mà doanh nghiệp mới là đối tượng chính mà các chính sách của Nhà nước cần hướng tới khi huy động đầu tư cho KH&CN. Từ năm 2008, việc khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư cho KH&CN đã được quy định tại Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp, tuy nhiên cho đến nay kết quả thu hút đầu tư không đạt được như mong muốn. Nguyên nhân đầu tiên là tư duy của người lãnh đạo doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhà nước. Sau nhiều năm hoạt động trong nền kinh tế kế hoạch hóa với tính cạnh tranh thấp, các doanh nghiệp đã quen với việc kinh doanh không cạnh tranh và không có nhu cầu cải tiến sản phẩm. Các doanh nghiệp nhà nước ỷ lại vào lợi thế độc quyền mà không quan tâm đến việc đầu tư đổi mới công nghệ nhằm nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, hàng hóa. Khi có nhu cầu đổi mới công nghệ thì thường mua công nghệ của nước ngoài thay vì đầu tư nghiên cứu để làm chủ và sáng tạo ra công nghệ mới. Một số tập đoàn, tổng công ty khi được Nhà nước giao cho các viện nghiên cứu thì không đầu tư, không giao nhiệm vụ nghiên cứu, dẫn tới các viện nghiên cứu này phải tách khỏi doanh nghiệp trở về trực thuộc các Bộ. Nguyên nhân thứ hai là phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam là doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ, mặc dù số lượng doanh nghiệp rất đông đảo, nhưng với doanh thu thấp, năng suất lao động thấp, chi phí hoạt động ngày càng cao, lợi nhuận trước thuế của từng doanh nghiệp là không nhiều. Vì vậy, kể cả khi các doanh nghiệp trích tối đa tỉ lệ mà Luật thuế thu nhập doanh nghiệp cho phép là 10% lợi nhuận trước thuế để đầu tư cho hoạt động KH&CN của doanh nghiệp thì giá trị của khoản đầu tư này cũng rất nhỏ, không đủ để đổi mới công nghệ. Trong khi đó, chưa có quy định cho phép các doanh nghiệp có thể tự nguyện trích phần đầu tư này cho quỹ phát triển KH&CN của địa phương nhằm “tích tiểu thành đại”. Cuối cùng là các bất cập trong chính sách của Nhà nước đối với việc huy động đầu tư của các doanh nghiệp cho KH&CN. Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp có hiệu lực năm 2008 chỉ khuyến khích chứ không bắt buộc doanh nghiệp phải đầu tư cho KH&CN, và các doanh nghiệp chỉ “được trích tối đa 10% lợi nhuận trước thuế” cho quỹ phát triển KH&CN của doanh nghiệp. Sở dĩ có mức trần 10% vì có ý kiến cho rằng, nếu không giới hạn tỉ lệ này thì có thể các doanh nghiệp sẽ trích phần lớn, thậm chí toàn bộ thu nhập trước thuế cho quỹ phát triển KH&CN, như vậy Nhà nước sẽ mất nguồn thu đáng kể từ thuế thu nhập doanh nghiệp. Tuy nhiên, lo ngại này là không có cơ sở thực tiễn, vì doanh nghiệp nào cũng phải có lợi nhuận sau thuế để đảm bảo tái đầu tư và đời sống người lao động. Hơn nữa, đầu tư cho KH&CN là đầu tư cho phát triển, kể cả khi các doanh nghiệp trích phần lớn lợi nhuận trước thuế để đầu tư cho KH&CN nhằm đổi mới công nghệ và thiết bị, nâng cao chất lượng sản phẩm thì trong dài hạn, khoản đầu tư này sẽ làm tăng nhanh doanh thu và lợi nhuận cho doanh nghiệp những năm sau đó và qua đó, doanh nghiệp đóng góp nhiều hơn cho NSNN thông qua thuế. Đó cũng chính là giải pháp nuôi dưỡng nguồn thu cho NSNN. Các quy định hiện hành về quản lý quỹ phát triển KH&CN của doanh nghiệp cũng chưa tạo điều kiện để các doanh nghiệp sử dụng thuận lợi nguồn kinh phí này, ví dụ quy định nếu doanh nghiệp không sử dụng hoặc sử dụng không đến 70% quỹ sau 5 năm từ năm trích lập thì bị truy thu thuế thu nhập doanh nghiệp tính trên phần không sử dụng cộng thêm lãi phát sinh (với lãi suất kho bạc) từ số thuế thu nhập doanh nghiệp đó. Và Nhà nước kiểm soát chi đối với 100% kinh phí của quỹ phát triển KH&CN của doanh nghiệp như đối với NSNN, trong khi Nhà nước chỉ ưu đãi miễn thuế thu nhập doanh nghiệp đối với phần kinh phí trích lập quỹ, nghĩa là chỉ 25% được coi là NSNN, còn 75% là lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp. Điều này dẫn tới các doanh nghiệp đều không muốn trích lập quỹ. Chính vì các hạn chế trên mà sau 4 năm từ khi Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp có hiệu lực, tình hình thu hút đầu tư từ các doanh nghiệp cho KH&CN vẫn không được cải thiện nhiều so với trước đây. Giải pháp để khắc phục vấn đề này đã được đề ra một cách hệ thống, đồng bộ trong các văn bản quan trọng mà Bộ KH&CN đã xây dựng và trình các cấp thẩm quyền gần đây (Đề án phát triển KH&CN phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế do Ban Cán sự Đảng Bộ KH&CN phối hợp với Ban Tuyên giáo Trung ương xây dựng và trình Hội nghị Trung ương 6 khóa XI; Dự án Luật Khoa học và Công nghệ (sửa đổi), trình Kỳ họp thứ 4 Quốc hội khóa XIII; Chiến lược phát triển KH&CN giai đoạn 2011 - 2020 do Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 418/QĐ-TTg ngày 11/4/2012; Đề án Đổi mới cơ bản, toàn diện và đồng bộ tổ chức, cơ chế quản lý, cơ chế hoạt động KH&CN đã trình Thủ tướng Chính phủ). Trong đó, hai đề xuất quan trọng nhất là: (1) cần phải Luật hóa quy định có tính bắt buộc các doanh nghiệp trích một tỉ lệ tối thiểu lợi nhuận trước thuế để đầu tư cho KH&CN. Chính phủ quy định tỉ lệ tối thiểu tùy theo quy mô và ngành nghề kinh doanh của doanh nghiệp, và không hạn chế tỉ lệ trích tối đa; (2) trong trường hợp doanh nghiệp không có điều kiện hoặc chưa có nhu cầu thành lập quỹ phát triển KH&CN của doanh nghiệp, thì nguồn kinh phí trích lập được có thể đóng góp cho quỹ phát triển KH&CN của Nhà nước ở địa phương. Qua các cuộc thảo luận, trao đổi, xuất hiện một vài ý kiến băn khoăn về các đề xuất này. Có ý kiến cho rằng các vấn đề liên quan đến thuế thì nên được quy định trong các luật chuyên ngành về thuế, không nên quy định trong các luật khác để tránh chồng chéo giữa các văn bản quy phạm pháp luật. Tuy nhiên, KH&CN đã được Đảng ta khẳng định là quốc sách hàng đầu. Vì vậy, các quy định về thuế cho hoạt động KH&CN, một lĩnh vực mang tính đặc thù, cũng cần được xây dựng một cách đặc thù trong luật chuyên ngành. Luật Khoa học và Công nghệ (sửa đổi), với các quy định cụ thể trên, sẽ được trình Quốc hội cho ý kiến ngay tại Kỳ họp thứ 4 (tháng 10 - 11/2012) và dự kiến thông qua vào Kỳ họp thứ 5 (tháng 5/2013), đảm bảo việc sớm thể chế hóa các chủ trương lớn của Đảng về KH&CN đã được thông qua tại Hội nghị Trung ương 6 (khóa XI). Hơn nữa, thời gian không chờ đợi chúng ta, vì chỉ còn 8 năm cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nếu không ban hành chính sách này kịp thời thì khó đạt được mục tiêu mà Chiến lược phát triển KH&CN giai đoạn 2011 - 2020 đã đề ra là tổng đầu tư xã hội cho KH&CN đạt 1,5% GDP vào năm 2015 và 2,0% GDP vào năm 2020. Cũng có ý kiến cho rằng, quy định này chỉ có thể bắt buộc được các doanh nghiệp nhà nước, còn đối với các doanh nghiệp ngoài nhà nước thì chỉ nên khuyến khích họ đầu tư cho KH&CN. Tuy nhiên, với chủ trương phải tiếp tục cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước và thoái vốn nhà nước tại các doanh nghiệp mà Nhà nước nắm dưới 50% cổ phần, số lượng doanh nghiệp nhà nước và nguồn lực kinh tế của các doanh nghiệp nhà nước sẽ giảm tiếp trong thời gian tới. Vì vậy, nếu quy định có tính bắt buộc chỉ áp dụng đối với các doanh nghiệp nhà nước thì chế tài này không thực sự mạnh mẽ hơn những quy định của Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2008, và không thay đổi được thực trạng huy động đầu tư từ doanh nghiệp như hiện nay. Điều đáng mừng là đa số các chuyên gia, các nhà quản lý, đặc biệt là lãnh đạo Bộ Tài chính và Bộ KH&CN đã thống nhất với quan điểm cần có chế tài mang tính bắt buộc đối với tất cả các doanh nghiệp trong việc đầu tư cho KH&CN với các tỉ lệ tối thiểu khác nhau do Chính phủ quy định, đảm bảo sự bình đẳng của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Về ý kiến cho rằng phần kinh phí đầu tư cho KH&CN chỉ nên dành cho quỹ của chính doanh nghiệp mà không nên huy động vào quỹ của Nhà nước ở địa phương, vì như vậy là bắt buộc các doanh nghiệp phải chuyển một phần lợi nhuận trước thuế cho một quỹ của Nhà nước khi doanh nghiệp không có nhu cầu đầu tư cho KH&CN: như đã phân tích ở trên, việc trích quỹ trước hết ưu tiên cho chính doanh nghiệp sử dụng để đổi mới công nghệ, tạo sản phẩm mới. Tuy nhiên đối với phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam, là doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ, phần trích được từ lợi nhuận trước thuế để đầu tư cho KH&CN của các doanh nghiệp này không đủ để tự đổi mới công nghệ của chính họ. Đây là lý do chủ yếu của việc phần lớn các doanh nghiệp vẫn chưa thành lập quỹ phát triển KH&CN của mình. Như vậy, nếu chúng ta bắt buộc các doanh nghiệp phải đầu tư cho KH&CN, nhưng không mở ra một kênh khác để doanh nghiệp tự nguyện thực hiện nghĩa vụ của mình với Nhà nước thì việc thực hiện các quy định của pháp luật là rất khó khả thi. Việc cho phép các doanh nghiệp có thể đóng góp vào quỹ phát triển KH&CN địa phương còn có tác dụng tập trung vốn đầu tư đổi mới công nghệ cho một số doanh nghiệp chủ lực của địa phương, sau đó quỹ của địa phương có thể lần lượt hỗ trợ đầu tư trở lại cho doanh nghiệp với nguồn kinh phí đủ lớn để đổi mới công nghệ của doanh nghiệp. Ngoài ra, theo quy định hiện hành, quỹ của địa phương chỉ được cấp vốn một lần từ NSNN khi mới thành lập. Vốn của quỹ phải được bảo tồn và phát triển thông qua hoạt động. Tuy nhiên, với thực tiễn môi trường kinh doanh ở nước ta hiện nay, các quỹ địa phương rất khó bổ sung thêm kinh phí từ các hoạt động cho vay, tài trợ. Đã có 20 tỉnh, thành phố thành lập quỹ phát triển KH&CN, nhưng nhiều địa phương đang phải đối mặt với khả năng không duy trì được các quỹ này sau một số năm hoạt động do bị mất vốn sau khi tài trợ cho hoạt động nghiên cứu. Chính vì vậy, đóng góp từ các doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ chính là nguồn duy trì hoạt động cho quỹ phát triển KH&CN địa phương, để qua đó quỹ này có thể đầu tư ngược lại cho các doanh nghiệp khi cần thiết. Sau khi Luật Khoa học và Công nghệ (sửa đổi) được ban hành, cần sớm ban hành các văn bản mới quy định về cơ chế tài chính đối với quỹ của doanh nghiệp trên cơ sở tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho các doanh nghiệp trích lập và chi tiêu cho KH&CN từ quỹ của mình. Nhà nước chỉ kiểm soát chi tiêu đối với phần mà doanh nghiệp được hưởng lợi về thuế khi trích lập quỹ. Nếu doanh nghiệp đóng góp cho quỹ của địa phương thì phần đóng góp này cũng phải được miễn thuế như đối với trích lập cho quỹ của doanh nghiệp. Thời gian gần đây, đã có những tín hiệu rất khả quan trong việc huy động đầu tư cho KH&CN từ các doanh nghiệp, điển hình là Tập đoàn Viễn thông quân đội và Tập đoàn Dầu khí quốc gia. Hai tập đoàn này đã thành lập các viện nghiên cứu và phát triển của mình và trích tỉ lệ tối đa được phép hiện nay là 10% thu nhập tính thuế để đầu tư cho các viện nghiên cứu này (với tổng kinh phí gần 4.500 tỉ đồng, xấp xỉ 30% NSNN chi cho KH&CN năm 2012, tương đương toàn bộ đầu tư của doanh nghiệp cả nước cho KH&CN năm 2011). Tuy nhiên, với các chính sách và quy định hiện hành, số lượng doanh nghiệp chủ động đầu tư cho KH&CN mạnh mẽ như hai tập đoàn trên là rất ít ỏi. Chính 2 tập đoàn kể trên cũng phản ảnh là không thể sử dụng hết nguồn kinh phí này. Để đạt mục tiêu của Chiến lược phát triển KH&CN giai đoạn 2011 - 2020 và triển khai hiệu quả Nghị quyết Trung ương 6 khóa XI về KH&CN, những giải pháp quyết liệt như đã nêu ở trên là hết sức cần thiết và cần phải được quy định cụ thể ngay trong các văn bản quy phạm pháp luật về hoạt động KH&CN. Có như vậy, KH&CN mới có thêm một nguồn lực to lớn để phát triển, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đổi mới cơ chế tài chính: đòn bẩy trong đổi mới hoạt động KH&CN Cơ chế tài chính còn nhiều bất cập đang là một trong những lực cản đối với sự phát triển của khoa học và công nghệ (KH&CN). Để tháo gỡ những bất cập đó, ngành KH&CN đang hướng đến việc đổi mới cơ bản, toàn diện và đồng bộ tổ chức, cơ chế quản lý, cơ chế hoạt động KH&CN, trong đó trọng tâm là đổi mới cơ chế tài chính. Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI cũng đã nhận định: “Đổi mới công tác quản lý nhà nước, đổi mới tổ chức, hoạt động và cơ chế, chính sách là khâu đột phá. Tập trung ưu tiên tháo gỡ các vướng mắc trong công tác kế hoạch, đầu tư, tài chính, đặc biệt là cơ chế cấp phát, thanh quyết toán kinh phí cho hoạt động KH&CN”. Cơ chế tài chính còn nhiều bất cập Ở các quốc gia có nền KH&CN phát triển, Nhà nước thực hiện giao quyền tự chủ tối đa cho các nhà khoa học với quy định rõ ràng về quyền hạn và trách nhiệm. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền phân bổ ngân sách và giám sát việc thực hiện. Các nhà khoa học có thể đề xuất đề tài, dự án nghiên cứu bất kỳ khi nào cần thiết, hệ thống quỹ về KH&CN sẽ là nơi đánh giá, lựa chọn các nghiên cứu được đề xuất, sau đó tài trợ kinh phí và theo dõi quá trình thực hiện. Các cơ quan có trách nhiệm của Chính phủ và Quốc hội có quyền kiểm tra chi tiêu, chống tham nhũng, lạm quyền cũng như kiểm tra việc thực hiện quy định của Nhà nước đối với các cơ sở nghiên cứu và đối với các nhà khoa học. Cơ chế này phù hợp với đặc thù sáng tạo của hoạt động KH&CN đó là tính rủi ro (mạo hiểm), tính trễ và tính thực tiễn. Vì thế, người làm khoa học phải được trao quyền tự chủ cao, nhưng kèm theo đó trách nhiệm nặng nề đối với sản phẩm khoa học của họ, thôi thúc họ dành trọn tâm huyết cho nghiên cứu. Ở Việt Nam, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về KH&CN nói chung và văn bản liên quan đến cơ chế tài chính cho hoạt động KH&CN nói riêng ngày càng được hoàn thiện. Đã có 8 đạo luật chuyên ngành với gần 300 văn bản hướng dẫn thi hành, tạo lập được hành lang pháp lý tương đối toàn diện cho hoạt động KH&CN. Tuy nhiên, hệ thống văn bản này còn thiếu đồng bộ, chưa cập nhật kịp thời để phù hợp với thực tiễn, tạo ra các vướng mắc cho phát triển KH&CN. Nước ta đã bước vào nền kinh tế thị trường, nhưng hoạt động KH&CN còn chịu nhiều quy định mang nặng tính hành chính, tư duy của thời bao cấp kế hoạch hóa. Trước hết là công tác xây dựng kế hoạch cho các đề tài, dự án KH&CN hàng năm. Việc áp đặt cơ chế kế hoạch hóa cứng nhắc trong xây dựng các nhiệm vụ KH&CN giống như đối với đầu tư xây dựng cơ bản là điều làm giới khoa học bức xúc nhất hiện nay. Mỗi năm các nhiệm vụ KH&CN cấp nhà nước phải được phê duyệt một lần trước ngày 31/7 của năm trước năm kế hoạch, sau đó tổng hợp vào dự toán Ngân sách nhà nước (NSNN), báo cáo Chính phủ và Quốc hội. Sau khi Quốc hội phê chuẩn dự toán NSNN (thường vào tháng 11 hàng năm), Thủ tướng Chính phủ sẽ giao kinh phí thực hiện cho các Bộ, ngành, địa phương vào đầu năm của năm kế hoạch. Để phê duyệt được danh mục các nhiệm vụ KH&CN theo cách làm này và xây dựng dự toán kinh phí phải trải qua quy trình phức tạp, mất nhiều thời gian: đề xuất nhiệm vụ; thông qua hội đồng tư vấn xác định nhiệm vụ; xây dựng thuyết minh, dự toán; thông qua hội đồng xét chọn, tuyển chọn, các hội đồng thẩm định nội dung, kinh phí; sau đó là phê duyệt. Quy trình này thường mất khoảng 3- 9 tháng. Tuy nhiên sau khi các nhiệm vụ được phê duyệt, thường phải chờ 6-7 tháng mới được giao kinh phí, vì vậy từ khi hướng dẫn lập kế hoạch đến khi có kinh phí để thực hiện, thường mất 9-15 tháng (cá biệt như năm 2011 và năm 2012 phải mất hơn 2 năm). Nhiều nhiệm vụ khi được cấp kinh phí đã không còn tính thời sự hoặc không đủ kinh phí để triển khai do lạm phát cao. Điều này không phù hợp với đặc thù của hoạt động KH&CN, chưa tạo điều kiện cho các nhà khoa học triển khai nghiên cứu kịp thời, hiệu quả. Cùng với đó, tất cả nhiệm vụ KH&CN khi xây dựng và phê duyệt phải kèm theo dự toán kinh phí chi tiết với các nội dung chi cụ thể theo các định mức được quy định. Đối với những nội dung khoa học nếu không có định mức thì được thực hiện bằng chuyên đề hoặc thuê khoán chuyên môn. Thực tế đối với việc nghiên cứu khoa học, có thể khẳng định không phải tất cả nội dung đều có thể xác định cụ thể được từ trước khi triển khai, ví dụ như cần làm bao nhiêu thí nghiệm, sử dụng hết bao nhiêu nguyên vật liệu để nghiên cứu thành công, v.v. Và nhiều nội dung mang tính sáng tạo trừu tượng không thể có định mức chuẩn được. Hơn nữa, hệ thống định mức thấp và lạc hậu dẫn tới tình trạng các nhà khoa học phải lập dự toán kinh phí bằng cách chia nhỏ nội dung thành hàng trăm chuyên đề để hợp thức hóa chứng từ. Điều này trái với bản chất của hoạt động nghiên cứu là trung thực và làm nản lòng các nhà khoa học. Một bất cập khác đối với dự toán kinh phí của các nhiệm vụ KH&CN là trong dự toán không có nội dung chi lương và hoạt động bộ máy. Điều này chỉ phù hợp khi tất cả các tổ chức KH&CN đều là tổ chức công lập. Các tổ chức này đã được Nhà nước chi lương và hoạt động bộ máy nên các nội dung chi này không được đưa vào dự toán kinh phí của nhiệm vụ. Tuy nhiên, sau khi Luật khoa học và công nghệ năm 2000 được ban hành, số lượng các tổ chức KH&CN khu vực ngoài nhà nước đã tăng lên một cách nhanh chóng (đến nay đã có trên 900 tổ chức KH&CN thuộc mọi thành phần kinh tế trong tổng số 1.600 tổ chức KH&CN cả nước). Khác với các tổ chức công lập, các tổ chức này không được NSNN đảm bảo kinh phí hoạt động thường xuyên. Vì vậy, họ phải tính chi phí tiền lương và hoạt động bộ máy trong dự toán kinh phí thực hiện các nhiệm vụ KH&CN. Điều này gây ra sự mất bình đẳng về dự toán kinh phí giữa các tổ chức KH&CN công lập và ngoài công lập khi tham gia tuyển chọn, xét chọn các nhiệm vụ KH&CN sử dụng NSNN. Việc điều chỉnh nội dung và kinh phí thực hiện nhiệm vụ KH&CN phù hợp với thực tế, đảm bảo hiệu quả nghiên cứu cũng là vấn đề phức tạp và gây mệt mỏi cho giới khoa học. Thông tư 93/2006/TTLT-BTC-BKHCN hướng dẫn chế độ khoán kinh phí của đề tài, dự án KH&CN sử dụng NSNN là một bước tiến bộ trong đổi mới cơ chế tài chính, quy định tất cả những nội dung liên quan đến con người đều được khoán, và do chủ nhiệm đề tài, dự án KH&CN quyết định trên cơ sở phù hợp với thực tiễn. Tuy nhiên, trên thực tế các kho bạc vẫn kiểm soát chi theo dự toán đã được phê duyệt. Nhà khoa học muốn tạm ứng hoặc quyết toán kinh phí vẫn phải theo đúng các nội dung của dự toán. Khi có biến độ về giá hoặc cần thay đổi nội dung nghiên cứu cho phù hợp, thủ tục xin phép điều chỉnh dự toán lại rất mất thời gian và phức tạp, qua nhiều cấp có thẩm quyền, vì thế các nhà khoa học thay vì xin phép điều chỉnh kinh phí đành phải hợp thức hóa chứng từ cho khớp với dự toán đã được phê duyệt. Thêm vào đó, thủ tục thanh quyết toán đề tài, dự án hiện vẫn rườm rà, phức tạp. Quy định quyết toán theo năm tài chính (kể cả để chuyển nguồn) làm các nhà khoa học phải mất một phần lớn thời gian vào công việc thanh quyết toán. Có nhiều nhiệm vụ, do nhận được kinh phí chậm, chưa kịp triển khai các nội dung theo dự toán đã đến hạn phải làm quyết toán năm. Các định mức tài chính lại không được cập nhật thường xuyên, nhất là trong bối cảnh lạm phát cao hiện nay. Ví dụ, quy định hiện hành hướng dẫn định mức xây dựng và phân bổ dự toán kinh phí đối với các đề tài, dự án KH&CN có sử dụng NSNN đã được ban hành từ năm 2007 (Thông tư 44/2007/TTLT-BTC-BKHCN). Trong khoảng thời gian từ đó đến nay, lương tối thiểu đã tăng gấp 3 lần (từ 350.000đ/tháng lên 1.050.000đ/tháng) nhưng định mức vẫn chưa thay đổi. Với định mức lạc hậu như vậy, việc các nhà khoa học dự một hội thảo khoa học nhưng phải ký 3-4 chữ ký để hợp thức hóa khoản thực chi là việc tương đối phổ biến hiện nay. Các cơ quan quản lý về tài chính đều biết rất rõ và mặc nhiên chấp nhận thay vì nhanh chóng đưa ra các định mức phù hợp hơn. Việc thiếu trung thực như vậy trong các hoạt động nghiên cứu khoa học không phải là hiện tượng hiếm và là việc cực chẳng đã, gây tổn thương lớn đến uy tín và lòng tự trọng của giới khoa học. Ngay cả các đồng chí lãnh đạo cao cấp của Đảng và Nhà nước khi tham gia hoạt động nghiên cứu cũng đã phàn nàn về việc này. Bất cập khác trong cơ chế tài chính liên quan đến việc giao quyền sở hữu kết quả nghiên cứu. Các nhiệm vụ KH&CN có sử dụng NSNN thì về nguyên tắc kết quả sẽ thuộc quyền sở hữu của nhà nước. Luật Sở hữu trí tuệ đã có quy định Nhà nước giao quyền sở hữu kết quả KH&CN có nguồn gốc NSNN cho các tổ chức, cá nhân, nhưng trên thực tế chúng ta đang thiếu các hướng dẫn cụ thể để thực hiện quy định này, dẫn tới việc các nhà khoa học, không thể chuyển giao kết quả nghiên cứu của mình một cách hợp pháp để ứng dụng vào sản xuất, kinh doanh, nên phải hợp thức hóa việc bán kết quả nghiên cứu thông qua các hợp đồng kinh tế với giá rẻ, gây thiệt hại cho cả Nhà nước và nhà khoa học. Điều này trên thực tế đã hạn chế việc đưa kết quả nghiên cứu vào thực tiễn, dẫn tới hiện tượng “bỏ ngăn kéo” nhiều đề tài khoa học. Cần cấp thiết đổi mới cơ chế tài chính Quan điểm xây dựng kế hoạch nhiệm vụ KH&CN như đối với các dự án đầu tư xây dựng cơ bản hoàn toàn không phù hợp với đặc thù của hoạt động KH&CN, nếu xét đến tính thời sự, rủi ro và khó định lượng của các nhiệm vụ KH&CN. Ví dụ khi Nhà nước đặt hàng cần nghiên cứu ngay một loại vắcxin phòng bệnh, các nhà khoa học không thể chờ tới 12-18 tháng mới có kinh phí để triển khai. Vì thế, cần nhanh chóng đổi mới công tác xây dựng kế hoạch. Thay vì xây dựng kế hoạch theo năm tài chính hiện nay, các nhiệm vụ KH&CN cần được cấp kinh phí theo tiến độ đề xuất và phê duyệt nhiệm vụ. Để làm được việc này, cơ chế tài chính hiện hành phải được thay bằng cơ chế tài chính áp dụng đối với các quỹ phát triển KH&CN. Trên thực tế, kể từ khi đi vào hoạt động năm 2008, mô hình của Quỹ phát triển KH&CN quốc gia được các nhà khoa học đánh giá rất cao vì có nhiều ưu điểm vượt trội so với cơ chế cấp phát tài chính hiện hành: cấp kinh phí kịp thời với việc phê duyệt nhiệm vụ; không phải quyết toán theo năm tài chính mà theo hợp đồng triển khai nhiệm vụ; cuối năm kinh phí chưa sử dụng hết tự động chuyển nguồn năm sau mà không phải làm thủ tục xin chuyển nguồn. Có ý kiến lo ngại việc cấp kinh phí qua quỹ có thể khó kiểm soát được chi tiêu ngân sách, nhưng cần hiểu rằng quỹ phát triển KH&CN ở Trung ương và địa phương vẫn là quỹ của Nhà nước và có tài khoản ở Kho bạc nhà nước nên NSNN cấp qua quỹ hoàn toàn có thể kiểm soát được, đồng thời phải có quy định chặt chẽ về chế độ báo cáo với cơ quan quản lý tài chính. Đây cũng là cơ chế phù hợp với thông lệ quốc tế, ở các nước phát triển thì quỹ là cơ quan chính thực hiện cấp phát kinh phí cho các đề tài nghiên cứu KH&CN. Để làm tốt việc này, cần thực hiện quy định của Quyết định 1244/QĐ-TTg ngày 25/7/2011 của Thủ tướng Chính phủ, giao quyền xác định tỉ lệ phân bổ NSNN hàng năm cho hoạt động nghiên cứu triển khai (R&D) và cấp kinh phí này vào hệ thống quỹ phát triển KH&CN hoặc cấp qua kho bạc nhưng theo cơ chế quỹ của nhà nước trong lĩnh vực KH&CN. Bộ Khoa học và Công nghệ tổ chức xây dựng và phê duyệt nhiệm vụ theo đặt hàng của Nhà nước và doanh nghiệp phù hợp với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Đổi mới và bổ sung nội dung của dự toán kinh phí cũng là một trong những giải pháp quan trọng. Cần đưa chi phí tiền lương và hoạt động bộ máy vào dự toán của nhiệm vụ KH&CN để đảm bảo sự bình đẳng giữa tổ chức KH&CN trong và ngoài công lập. Điều này phù hợp với việc thực hiện Nghị định 115/2005/NĐ-CP quy định cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của tổ chức KH&CN công lập và Nghị định 96/2010/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 115/2005/NĐ-CP. Theo cơ chế này, Nhà nước sẽ không cấp kinh phí hoạt động thường xuyên cho các tổ chức KH&CN công lập theo số lượng biên chế như hiện nay mà chuyển sang cấp kinh phí theo nhiệm vụ, bao gồm cả nhiệm vụ thường xuyên theo chức năng của tổ chức KH&CN và nhiệm vụ KH&CN (đề tài, dự án KH&CN các cấp). Hiện thông tư liên tịch hướng dẫn chi tiết vấn đề này đang được Bộ Khoa học và Công nghệ phối hợp với Bộ Tài chính tích cực hoàn thiện để ban hành. Trước mắt, cần rà soát, cập nhật lại toàn bộ định mức chi cho những công việc có thể định mức theo Thông tư 44/2007/TTLT-BTC-BKHCN hướng dẫn định mức xây dựng và phân bổ dự toán kinh phí đối với các đề tài, dự án KH&CN có sử dụng NSNN như kinh phí tổ chức hội nghị, hội thảo, đoàn ra,… Có phương án điều chỉnh định mức tài chính kịp thời theo chỉ số tăng giá tiêu dùng (CPI) và mức tiền lương tối thiểu để đảm bảo phù hợp với thực tế. Những nội dung chi không thể có định mức trong hoạt động nghiên cứu khoa học cần phải được giao quyền tự chủ, đảm bảo bù đắp được lao động sáng tạo của các nhà khoa học. Đồng thời, bổ sung một số nội dung chi vào dự toán kinh phí, như: đăng ký bảo hộ sở hữu trí tuệ, tuyên truyền kết quả nghiên cứu, hoàn thiện công nghệ sau nghiệm thu, thuê chuyên gia trong nước và nước ngoài, kinh phí dự phòng. Cùng với đó, phân cấp mạnh hơn nữa thẩm quyền điều chỉnh nội dung và kinh phí của đề tài cho Bộ Khoa học và Công nghệ và Bộ Tài chính. Cuối cùng, cần đổi mới thủ tục thanh quyết toán, tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho các nhà khoa học, hướng đến kết quả và sản phẩm cuối cùng của nhiệm vụ. Nên đổi mới theo hướng khi kết quả được nghiệm thu thì đề tài tự động được quyết toán, vì trên thực tế, các hóa đơn, chứng từ sẽ không có nhiều ý nghĩa khi kết quả của các đề tài, dự án đã đạt được như cam kết trong hợp đồng, nói khác đi cần thí điểm cơ chế khoán chi đến sản phẩm cuối cùng hoặc Nhà nước mua trọn gói kết quả nghiên cứu. Về việc giao quyền sở hữu tài sản trí tuệ có nguồn gốc NSNN, như đã được Bộ Khoa học và Công nghệ đề xuất trong dự thảo Luật khoa học và công nghệ (sửa đổi), thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền sẽ là đại diện chủ sở hữu nhà nước đối với những kết quả nghiên cứu được tạo ra từ NSNN. Đại diện chủ sở hữu có quyền giao quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng kết quả nghiên cứu cho các tổ chức KH&CN, trong đó ưu tiên tổ chức chủ trì đề tài, dự án. Khi đã được giao quyền sở hữu, tổ chức KH&CN có thể chuyển nhượng, góp vốn vào doanh nghiệp, hay dùng quyền sở hữu tài sản trí tuệ đó như vốn pháp định để thành lập doanh nghiệp KH&CN. Tất nhiên, cần quy định rõ quy trình, thủ tục giao quyền sở hữu và phân chia lợi ích giữa Nhà nước, tổ chức chủ trì nhiệm vụ KH&CN, và các tác giả của kết quả KH&CN. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 6 khóa XI đã ban hành Nghị quyết mới về phát triển KH&CN, nhấn mạnh đến việc đổi mới cơ chế tài chính trong hoạt động KH&CN như là một trong những giải pháp đột phá để phát triển KH&CN nước ta trong thời kỳ mới. Để triển khai thành công kết quả của Hội nghị Trung ương 6 và đáp ứng sự mong mỏi của cộng đồng các nhà khoa học, việc thể chế hóa các chủ trương, chính sách của Đảng đối với cơ chế tài chính cho hoạt động KH&CN thông qua Luật khoa học và công nghệ (sửa đổi) lần này là hết sức cần thiết và sẽ mang lại nhiều thành tựu KH&CN mới, nâng cao hiệu quả của hoạt động KH&CN hiện nay. Nhân lực Khoa học và Công nghệ: trọng dụng và tôn vinh Cùng với việc tiếp tục khẳng định Khoa học và Công nghệ (KH&CN) là quốc sách hàng đầu, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 6 khóa XI đã nhận định “Nhân lực KH&CN là tài nguyên vô giá của đất nước; trí thức KH&CN là nguồn lực đặc biệt quan trọng trong phát triển kinh tế tri thức”. Nghị quyết số 27 Hội nghị Trung ương 7 khóa X về trí thức cũng khẳng định: “đầu tư cho nhân lực KH&CN, đãi ngộ người tài là đầu tư cho phát triển bền vững, trực tiếp nâng tầm trí tuệ và sức mạnh của dân tộc”. Đảng và Nhà nước có trách nhiệm và chính sách đặc biệt phát triển, trọng dụng và phát huy tiềm năng sáng tạo của đội ngũ cán bộ KH&CN để KH&CN trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp quan trọng, đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020 và là nước công nghiệp hiện đại vào giữa thế kỷ 21. Quan điểm của Đảng ta về nhân lực KH&CN đã được khẳng định ngay từ những năm đầu tiên Việt Nam giành được độc lập. Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương về trọng dụng nhân tài khoa học, đặc biệt quan tâm tới việc tạo điều kiện và môi trường làm việc tốt nhất cho các nhân tài hoạt động khoa học. Theo Người, phát hiện nhân tài đã khó nhưng việc khó hơn là làm thế nào để đức tài của họ được phát huy cao nhất trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Từ những năm 40-50 của thế kỷ XX, đã có nhiều nhân tài người Việt, khâm phục lý tưởng, hoài bão và nhân cách Hồ Chí Minh, đã từ bỏ cuộc sống giàu sang ở nước ngoài, đi theo Người vào cuộc kháng chiến trường kỳ, gian khổ như Viện sĩ Trần Đại Nghĩa, Tiến sĩ Lương Định Của, nhà văn hóa Phạm Huy Thông… Nhiều người trong số đó sau này đã đảm nhận cương vị chủ chốt về các lĩnh vực khoa học, kỹ thuật, văn hóa của đất nước và được tôn vinh bằng Giải thưởng Hồ Chí Minh ngay từ đợt xét tặng đầu tiên cho những công trình khoa học xuất sắc của họ cho đất nước. Tuy nhiên, trong giai đoạn kinh tế thị trường hiện nay, mặc dù các Nghị quyết của Đảng, các văn bản pháp luật luôn quan tâm và đề cao vai trò của nhân tài khoa học, nhưng trên thực tế chúng ta hầu như chưa có chính sách cụ thể nào để thực sự trọng dụng, sử dụng và tôn vinh cán bộ khoa học. Đã đến lúc phải thay đổi tư duy về chính sách đãi ngộ và trọng dụng cán bộ KH&CN, phải coi đây là một vấn đề cấp bách cần được giải quyết kịp thời. Đãi ngộ cần tương xứng với giá trị đóng góp Một trong những vấn đề các nhà khoa học quan tâm nhất hiện nay chính là việc thiếu các chính sách đãi ngộ gắn với chăm lo bồi dưỡng và sử dụng hiệu quả đội ngũ trí thức. Không nên quan niệm đãi ngộ giới trí thức giống như các cơ chế, chính sách với người có công hay đối tượng chính sách. Trước khi nghĩ đến đãi ngộ về vật chất, cần tạo điều kiện tốt nhất để nhà khoa học được sáng tạo, cống hiến tài năng, tâm huyết cho đất nước. Trên cơ sở đó, xây dựng cơ chế chính sách để nhà khoa học được hưởng thành quả từ lao động sáng tạo, tương xứng với giá trị đóng góp của họ. Mỗi năm, Nhà nước đầu tư 2% tổng chi ngân sách cho phát triển KH&CN, trong đó gần 90% dành cho đầu tư phát triển và chi thường xuyên, chỉ còn một khoản kinh phí không lớn cho hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, nếu phân bổ dàn trải như hiện nay sẽ chỉ thu được những công trình không mấy giá trị, thậm chí còn bị “xếp vào ngăn kéo”. Cần thấy rằng nhiều năm qua, việc giao kinh phí nghiên cứu cho các địa phương và các bộ ngành theo kiểu bình quân, dàn trải và không quản lý được hiệu quả đã dẫn tới tình trạng không đủ nguồn lực đầu tư lớn cho những công trình nghiên cứu trọng điểm gắn với nhu cầu thực tiễn, có triển vọng thương mại hóa. Chưa kể cơ chế tài chính chưa phù hợp, đã có những năm số tiền đầu tư cho nghiên cứu khoa học không thể giải ngân hết. Vì vậy, trước hết cần cân đối lại tỷ lệ phân bổ ngân sách, đảm bảo tỷ lệ thích đáng cho nhiệm vụ R&D và tạo điều kiện cho các nhà khoa học được chủ động sử dụng nguồn kinh phí này đi đôi với tự chịu trách nhiệm về kết quả và hiệu quả nghiên cứu, đặc biệt được hưởng lợi chính đáng, hợp pháp từ kết quả nghiên cứu của họ. Trong chế độ tiền lương, hiện giới viên chức khoa học đang chịu thiệt thòi là đối tượng làm công ăn lương duy nhất không được hưởng các chế độ phụ cấp đặc thù (phụ cấp nghề, phụ cấp thâm niên…) giống như viên chức của ngành giáo dục, y tế hay các lĩnh vực khác. Tuy nhiên, tiền lương chỉ là một trong những vấn đề, điều mà các nhà khoa học quan tâm nhiều hơn là điều kiện, môi trường làm việc, tức là họ phải được tin tưởng giao nhiệm vụ, được quyền tự do nghiên cứu và được tạo điều kiện làm việc tốt nhất (như trang thiết bị nghiên cứu hiện đại, phòng thí nghiệm, thư viện, chủ động trong hợp tác quốc tế, có những đồng nghiệp giỏi cùng chí hướng, được quyền mời chuyên gia trong nước và quốc tế cùng nghiên cứu...). Và để làm việc trong môi trường đó, thì họ cần được quyền tự chủ cao về nhân sự và tài chính khi tiến hành các hoạt động nghiên cứu như thông lệ ở các nước phát triển. Nhìn rộng ra các quốc gia khác có thể thấy, bằng việc áp dụng các chính sách ưu đãi trọng dụng cán bộ KH&CN, nhiều quốc gia đã có bước phát triển thần kỳ trong KH&CN cũng như kinh tế. Một ví dụ điển hình là Hàn Quốc, từ đầu thập kỷ 60 thế kỷ trước đã quyết tâm thực hiện chính sách mời các nhà khoa học Hàn Quốc đang làm việc tại nước ngoài về nước làm việc tại Viện KH&CN Hàn Quốc (KIST) với chế độ lương cao gấp 3 lần so với các giáo sư trong nước, kèm theo các chế độ đãi ngộ khác về nhà ở, đầu tư cơ sở vật chất. Kết quả là chỉ sau 40 năm Viện KIST đã trở thành 1 trong 10 viện hàng đầu thế giới và Hàn Quốc cũng trở thành quốc gia công nghiệp hóa thành công nhất. Hay như Trung Quốc hiện nay đang cải cách thế chế hóa khoa học và xây dựng hệ thống nhà nước sáng tạo, trong đó tập trung hoàn thiện cơ chế phát triển nhân tài, khuyến khích nhà khoa học tích cực sáng tạo, thu hút các nhà khoa học Hoa kiều về nước làm việc với mức lương cao không kém mức lương của họ ở các nước phát triển… Nhờ đó, đến nay Trung Quốc đã đạt tỷ lệ 43 người làm R&D/1 vạn dân, trở thành cường quốc kinh tế thứ hai thế giới. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 : cơ hội phát triển mới Trong các văn kiện, Nghị quyết của Đảng cũng nêu rõ, để phát triển đất nước theo hướng CNH, HĐH từ nay đến năm 2020, con người là nhân tố quyết định. Vấn đề là làm thế nào để con người được đặt ở vị trí trung tâm trong chiến lược phát triển KH&CN từ nay đến năm 2020. Trên thực tế đến thời điểm hiện tại, Việt Nam chưa có chính sách thỏa đáng để đãi ngộ và trọng dụng cán bộ khoa học, chưa thu hút được giới trẻ vào ngành khoa học, đồng nghĩa với việc các cơ quan nghiên cứu không tuyển dụng được người tài. Như vậy, chỉ một vài năm nữa, nếu không có giải pháp hữu hiệu Việt Nam sẽ thiếu hụt trầm trọng đội ngũ cán bộ khoa học trẻ có trình độ, đồng thời xảy ra tình trạng “chảy máu chất xám” từ khu vực nhà nước ra doanh nghiệp, ra nước ngoài… Vấn đề tiếp theo là thời gian từ nay đến 2020 còn rất ngắn, trong khi mục tiêu trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại đòi hỏi phải triển khai thành công các chương trình quốc gia về phát triển KH&CN với nhiệm vụ rất nặng nề. Nếu như không kịp thời có chính sách đãi ngộ và trọng dụng nhân tài mang tính đột phá thì không thể có những nhà khoa học đầu ngành, những tập thể khoa học mạnh và chúng ta không thể đạt được mục tiêu của Chiến lược phát triển kinh tế xã hội đến năm 2020, sản phẩm công nghệ cao (CNC) và sản phẩm ứng dụng CNC chiếm 40% giá trị sản xuất công nghiệp, Việt Nam có nền KH&CN đạt trình độ những nước dẫn đầu ASEAN… Nhận thức rõ tầm quan trọng của KH&CN và xuất phát từ tình hình thực tế, vừa qua Ban chấp hành Trung ương Đảng đã ban hành Nghị quyết số 20 “Phát triển KH&CN phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH đất nước trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”, trong đó có những nội dung quan trọng liên quan đến phát triển đội ngũ trí thức : Thứ nhất là cần “xây dựng và thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng, trọng dụng, đãi ngộ, tôn vinh đội ngũ cán bộ KH&CN; tạo môi trường thuận lợi, điều kiện vật chất để đội ngũ cán bộ KH&CN phát triển bằng tài năng và hưởng lợi ích xứng đáng với giá trị lao động sáng tạo của mình”. Thứ hai là “có chính sách trọng dụng đặc biệt đối với cán bộ KH&CN đầu ngành, cán bộ KH&CN được giao nhiệm vụ chủ trì các nhiệm vụ quan trọng của quốc gia, cán bộ KH&CN trẻ tài năng” (mức lương, nhà ở, bổ nhiệm, giao quyền hạn, chế độ tự chủ tài chính…). Thứ ba là phải “đổi mới công tác tuyển dụng, bố trí, đánh giá và bổ nhiệm cán bộ KH&CN. có chính sách tiếp tục sử dụng cán bộ KH&CN trình độ cao đã hết tuổi lao động”. Đồng thời tăng cường bảo vệ quyền lợi và lợi ích chính đáng của tác giả các công trình KH&CN, “hoàn thiện hệ thống chức danh, chức vụ KH&CN. Cải tiến hệ thống giải thưởng KH&CN quốc gia, danh hiệu vinh dự nhà nước cho cán bộ KH&CN ”. Tập trung ưu đãi 3 nhóm đối tượng chính Thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 khóa XI, trong Luật Khoa học và Công nghệ (sửa đổi), chúng ta cần xây dựng chính sách đãi ngộ một số nhóm đối tượng chính cần được quan tâm đặc biệt, đó là cán bộ KH&CN đầu ngành, cán bộ KH&CN được giao nhiệm vụ chủ trì các nhiệm vụ quan trọng của quốc gia và cán bộ KH&CN trẻ tài năng. Sở dĩ phải tập trung trọng dụng 3 nhóm đối tượng này vì trong hoàn cảnh khó khăn hiện nay, việc đãi ngộ bằng trả lương cao cho tất cả những người làm khoa học là không thể. Chúng ta không chỉ có hơn 6 vạn người làm nghiên cứu chuyên nghiệp, mà hơn 3 triệu người được đào tạo có trình độ đại học đều có khả năng tham gia hoạt động nghiên cứu, và hàng triệu người dân yêu khoa học cũng có cơ hội đóng góp cho khoa học. Vì thế điểm đột phá chính là tạo điều kiện làm việc tốt và môi trường hoạt động khoa học thuận lợi cho giới khoa học, song song với việc trọng dụng và ưu đãi đặc biệt với một số nhóm đối tượng có vai trò tiên phong trong hoạt động khoa học. Cần phải có tư duy mới: Làm thế nào để cán bộ khoa học được sống tốt bằng chính kết quả sáng tạo của mình trong nền kinh tế thị trường, chứ không thể tiếp tục để giới khoa học bị mang tiếng là muốn làm đề tài, dự án để có thu nhập. Nội hàm của chính sách trọng dụng cán bộ KH&CN, đặc biệt là tiêu chí xác định thế nào là nhà khoa học đầu ngành, nhà khoa học trẻ tài năng sẽ là một vấn đề mà những người làm quản lý KH&CN phải làm rõ. Các nhà khoa học đầu ngành có thể là các chủ nhiệm bộ môn chuyên ngành trong các trường đại học lớn, trưởng phòng thí nghiệm hoặc nhóm nghiên cứu mạnh trong các viện nghiên cứu trọng điểm có nhiều sản phẩm khoa học đạt trình độ quốc tế, các tổng công trình sư giàu kinh nghiệm thực tiễn. Họ cần được ưu đãi về điều kiện làm việc (phòng thí nghiệm, thư viện, internet, phương tiện đi lại…), chế độ lương và phụ cấp xứng đáng, được quyền đề xuất nhiệm vụ nghiên cứu và chủ trì các nhóm nghiên cứu, tham gia đào tạo đại học và sau đại học, chủ trì các hội nghị khoa học quốc tế, và quan trọng là được giao tự chủ một khoản kinh phí nhất định hàng năm cho hoạt động khoa học của mình (như kinh nghiệm của các nước phát triển). Còn các nhà khoa học trẻ tài năng là những sinh viên, nghiên cứu sinh giỏi, cán bộ trẻ có kết quả nghiên cứu xuất sắc, giành được các giải thưởng KH&CN trong nước và nước ngoài, có nhiều công trình công bố quốc tế, có phát minh, sáng chế. Nhà nước cần tạo điều kiện cho họ tham gia vào các nhiệm vụ khoa học, được tự chủ một khoản kinh phí nhất định để từ ý tưởng khoa học trở thành một đề tài nghiên cứu đi đến sản phẩm cuối cùng. Riêng các nhà khoa học được giao nhiệm vụ KH&CN quan trọng của quốc gia thì tiêu chí xác định đơn giản hơn, đó là nhà khoa học được nhà nước giao cho đứng đầu một tập thể nghiên cứu để thực hiện một nhiệm vụ KH&CN có tầm quan trọng đối với an ninh, quốc phòng hoặc phát triển kinh tế, nhằm tạo ra công trình, sản phẩm có giá trị cao theo đặt hàng của nhà nước (ví dụ vắc xin bệnh hiểm nghèo, tên lửa hành trình, vệ tinh viễn thông…). Họ phải có quyền tự chủ cao về tài chính và nhân sự, được chủ động đầu tư trang thiết bị cho phòng thí nghiệm hiện đại hoặc sử dụng miễn phí các phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia, có thể tiếp cận với mọi nguồn thông tin tư liệu từ các thư viện điện tử, thư viện kỹ thuật quan trọng, được quyền điều động và trả lương theo thỏa thuận cho những nhà khoa học giỏi nhất từ các cơ quan khoa học, thậm chí là thuê chuyên gia nước ngoài tham gia quá trình thực hiện nhiệm vụ. Họ có quyền tham dự các hội nghị, hội thảo quốc tế, mua công nghệ, thuê chuyên gia… bằng nguồn kinh phí được giao tự chủ mà không lệ thuộc vào các thủ tục hành chính. Bên cạnh đó, phải giao quyền sở hữu kết quả nghiên cứu có nguồn gốc ngân sách nhà nước cho giới khoa học, trước mắt là giao cho cơ quan chủ trì các đề tài, dự án sử dụng ngân sách nhà nước và tập thể tác giả của đề tài dự án, để họ có quyền chuyển nhượng hoặc góp vốn vào doanh nghiệp, có thể dùng làm vốn để lập doanh nghiệp KH&CN. Và khi giao quyền sở hữu để phục vụ sản xuất, kinh doanh cũng quy định rõ việc phân chia lợi ích một cách hợp lý giữa Nhà nước, cơ quan chủ trì và nhà khoa học. Giao biên chế nghiên cứu chuyên nghiệp cho các trường đại học công nghệ trọng điểm Luật KH&CN (sửa đổi) lần này cũng đề xuất một vấn đề rất quan trọng, đó là giao các biên chế nghiên cứu chuyên nghiệp cho các trường đại học công nghệ trọng điểm. Xuất phát từ tình hình thực tế, các trường đại học hầu như chỉ tập trung cho hoạt động đào tạo, còn nhiệm vụ nghiên cứu khoa học thường bị thả nổi mặc dù là một trong hai nhiệm vụ chính trị của cơ sở giáo dục đại học (theo quy định của Luật giáo dục đại học). Vì thế hầu như không gắn kết được giữa nghiên cứu với đào tạo. Nguyên nhân là do tình trạng quá tải trong giảng dạy nên giảng viên không thể bố trí thời gian cho nghiên cứu, kinh phí nghiên cứu cũng eo hẹp nên đề tài nghiên cứu cấp cơ sở có mức kinh phí rất thấp (chỉ vài chục triệu đồng) không đủ để thực hiện đề tài một cách nghiêm túc, và cuối cùng là do các trường đại học không có biên chế nghiên cứu chuyên nghiệp và không có nguồn kinh phí thường xuyên để chăm lo cho đội ngũ nghiên cứu. Chính vì vậy, các trường đại học cần có một đội ngũ nghiên cứu chuyên nghiệp và cần dành một phần kinh phí sự nghiệp khoa học để hỗ trợ chi thường xuyên và giao đề tài nghiên cứu cho số cán bộ này. Có ý kiến cho rằng số biên chế này sẽ không yên tâm làm nghiên cứu. Tuy nhiên có thể khắc phục tình trạng đó nếu xác định rõ họ vẫn có quyền tham gia vào công tác đào tạo của các trường đại học, nhưng chỉ hạn chế trong việc giảng dạy các chuyên đề cho sinh viên năm cuối hoặc chuyên đề cho học viên cao học hay nghiên cứu sinh. Ngoài đề xuất giao biên chế nghiên cứu chuyên nghiệp cho các trường đại học trọng điểm, Bộ KH&CN cũng sẽ hợp tác với Bộ GD&ĐT trong chương trình đào tạo sau đại học dùng ngân sách nhà nước hay hợp tác quốc tế để đào tạo các cán bộ có trình độ cao trong nước hay ở nước ngoài. Đồng thời kiến nghị với Bộ Nội vụ việc bổ nhiệm vào ngạch viên chức nên có những đổi mới để những người có trình độ cao có thể được bổ nhiệm đặc cách hoặc được nâng ngạch, nâng bậc tương xứng với trình độ và đóng góp của họ. Bên cạnh việc đề xuất có danh hiệu vinh dự Nhà nước cho cán bộ khoa học có những thành tích xuất sắc, cũng cần có hình thức tôn vinh thông qua các giải thưởng về KH&CN cho giới khoa học. Đó phải là hệ thống giải thưởng đa dạng và thiết thực chứ không chỉ là giải thưởng Hồ Chí Minh, giải thưởng Nhà nước về KH&CN đang được thực hiện 5 năm một lần như hiện nay, mà cần có hệ thống các giải thưởng khác từ cấp cơ sở đến cấp Nhà nước về KH&CN. Nghị quyết Trung ương 6 đã được ban hành, nhưng việc cần làm ngay hiện nay là phải cụ thể hóa bằng pháp luật và cơ chế chính sách của Nhà nước đối với cán bộ KH&CN. Vấn đề này đòi hỏi phải có sự phối hợp tốt của các bộ, ngành, địa phương và sự chỉ đạo quyết liệt của lãnh đạo Đảng, Nhà nước, sao cho sớm hình thành được chính sách thực sự trọng dụng và ưu đãi cán bộ KH&CN, chứ không nên chỉ là “trải thảm đỏ” mời họ về và sau đó họ lại lặng lẽ ra đi khi không được tin tưởng giao nhiệm vụ, không được tạo điều kiện làm việc. Và hơn ai hết, giới khoa học phải tận dụng được vai trò “quốc sách hàng đầu” của KH&CN, làm việc và sáng tạo cho xứng đáng với sự đãi ngộ của Nhà nước, sự quan tâm của Đảng, để tự khẳng định mình và tạo ra được những sản phẩm khoa học ngang tầm khu vực và thế giới, xứng đáng với mong đợi của đất nước và nhân dân. Theo daibieunhandan, most.gov.vn
Bài 2
Bài 3
Ý kiến góp ý: