TextBody
Huy chương 2

Giải pháp chuyển đổi thủy điện nhỏ sang cấp nước sinh hoạt, nước sản xuất vùng khó khăn, khan hiếm nước khu vực miền núi phía Bắc

01/10/2025

Ngày 30/9/2025, tại Viện Khoa học Thủy lợi Việt Nam đã tổ chức Hội thảo khoa học về “Giải pháp chuyển đổi thủy điện nhỏ sang cấp nước sinh hoạt, nước sản xuất vùng khó khăn, khan hiếm nước khu vực miền núi phía Bắc”.

Đây là Hội thảo nằm trong khuôn khổ của Đề tài khoa học công nghệ cấp Bộ: “Nghiên cứu các giải pháp sử dụng nước thủy điện nhỏ cấp nước phục vụ sản xuất, sinh hoạt cho vùng miền núi phía Bắc” do TS. Đỗ Ngọc Ánh làm chủ nhiệm.

Tham dự Hội thảo có TS. Nguyễn Xuân Khôi - Vụ Khoa học và Công nghệ -  Bộ Nông nghiệp và Môi trường; PGS.TS. Nguyễn Thanh Bằng - Phó Giám đốc Viện; Đại diện lãnh đạo và chuyên viên Ban Kế hoạch Tổng hợp, Đại diện Sở Nông nghiệp và Môi trường Tuyên Quang,  Sở Nông nghiệp và Môi trường Cao Bằng. Ngoài ra, còn có các đại biểu là các nhà khoa học đến từ các đơn vị như: Viện Thủy điện và Năng lượng tái tạo, Viện Kinh tế và Quản lý Thủy lợi, Trung tâm Tư vấn PIM, Trường Đại học Thủy lợi, Hội Đập lớp và Phát triển nguồn nước Việt Nam, Hội Thủy lợi,…

Phát biểu tại Hội thảo, PGS.TS. Nguyễn Thanh Bằng - Phó Giám đốc Viện cho biết đây là đề tài cấp Bộ được Bộ Nông nghiệp và Phát Nông thôn (nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường) giao Viện Khoa học Thủy lợi Việt Nam chủ trì thực hiện. Trong quá trình triển khai thực hiện, nhóm cũng đã thực hiện rất nhiều nội dung nghiên cứu từ tiến hành về khảo sát thực địa tại nhiều tỉnh miền núi phía Bắc; phân tích các mô hình trong và ngoài nước; tổ chức các hội thảo tọa đàm, các hội nghị chuyên đề với sự tham gia của các chuyên gia, nhà khoa học, nhà quản lý, các cán bộ kỹ thuật ở cơ sở. Các kết quả nghiên cứu đã đề xuất được một hệ thống các giải pháp kỹ thuật, công nghệ và quản lý để xem xét, áp dụng cho các công trình ở nhiều cấp độ khác nhau.

Hội thảo lần này là dịp để cơ quan chủ trì, nhóm thực hiện đề tài báo cáo các kết quả nghiên cứu, các sản phẩm khoa học công nghệ đã đạt được. Đồng thời xin ý kiến các nhà khoa học, các nhà quản lý, chủ sở hữu thuỷ điện nhỏ và chủ các doanh nghiệp hoạt động trong dịch vụ ngành nước về các đề xuất giải pháp của đề tài, bao gồm giải pháp công trình công nghệ, giải pháp thể chế chính sách, cơ chế hỗ trợ và các mô hình quản trị vận hành sau khi chuyển đổi thuỷ điện nhỏ sang cấp nước hoặc kết hợp mục tiêu cấp nước. Qua đây, nhóm thực hiện có thể hoàn thiện một cách tốt nhất các sản phẩm của đề tài trước khi báo cáo tại hội đồng nghiệm thu các cấp sau này.

 

Theo TS. Đỗ Ngọc Ánh - Chủ nhiệm Đề tài cho biết, thực trạng vùng miền núi phía Bắc hiện đang tồn tại hàng trăm các thuỷ điện nhỏ (≤ 30 MW) và siêu nhỏ (≤ 1 MW) được đầu tư xây dựng tại các vùng sâu, vùng xa theo chương trình điện khí hoá nông thôn trong những năm thập kỷ 90 của thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21. Hiệu suất hoạt động của các trạm thủy điện này thường thấp, nhiều trạm đã ngừng hoạt động do không hiệu quả kinh tế hoặc do đã có điện lưới quốc gia thay thế. Trong tổng số 355 trạm thuỷ điện hiện hữu thì có 57 (16,1%) trạm đã ngừng hoạt động. Song song với đó, nhu cầu nước sạch tại MNPB đang ở mức bức thiết. Tỷ lệ hộ nông thôn được dùng nước sạch trong vùng mới đạt khoảng 29%, thấp nhất cả nước, trong khi mục tiêu đến năm 2030 là 65% dân số nông thôn sử dụng nước đạt quy chuẩn, tối thiểu 60 lít/người/ngày. Dưới tác động của biến đổi khí hậu và các hiện tượng cực đoan, thiếu nước mùa khô xuất hiện ngày càng rộng, bên cạnh nghĩa vụ quốc tế về bảo đảm quyền con người về tiếp cận nước sạch, hệ thống chủ trương, chính sách của Việt Nam đã đặt an ninh nguồn nước ở vị trí trung tâm, được thể hiện ở Kết luận 36-KL/TW của Bộ Chính trị và các quyết định điều hành của Chính phủ. Luật Tài nguyên nước 2023 tiếp tục khẳng định ưu tiên cao nhất cho cấp nước sinh hoạt, yêu cầu duy trì dòng chảy tối thiểu và tăng cường điều phối liên ngành; Luật Điện lực 2024 bổ sung các yêu cầu về an toàn đập, môi trường và tích hợp quy hoạch, phát triển thuỷ điện có kiểm soát,...Các nền tảng thể chế này gợi mở định hướng chính sách chuyển đổi/kết hợp cấp nước đa mục tiêu đối với công trình thủy điện.

Trong bối cảnh đó, đề tài “Nghiên cứu các giải pháp sử dụng nước thủy điện nhỏ cấp nước phục vụ sản xuất, sinh hoạt cho vùng miền núi phía Bắc” đã được Bộ Nông nghiệp Phát triển Nông thôn (nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường) giao Viện Khoa học Thuỷ lợi Việt Nam chủ trì, bắt đầu thực hiện từ năm 2023.

Đề tài có mục tiêu chính là: Đề xuất được giải pháp khoa học công nghệ nhằm sử dụng nước thủy điện nhỏ (sử dụng nước sau thủy điện, phục hồi, chuyển đổi mục đích từ phát điện sang cấp nước cho vùng khó khăn, khan hiếm nước khu vực miền núi phía Bắc) phục vụ sản xuất và sinh hoạt; Đề xuất được cơ chế chính sách sử dụng nước thủy điện nhỏ (sử dụng nước sau thủy điện, chuyển đổi trạm thủy điện sang cấp nước cho vùng cho vùng khó khăn, khan hiếm nước khu vực miền núi phía Bắc) phục vụ sản xuất, sinh hoạt.

Để thực hiện được các mục tiêu đó, đã đặt ra 05 nội dung cần nghiên cứu: Nội dung 1: Điều tra, thu thập tài liệu, lập danh mục các nhà máy thuỷ điện nhỏ có tiềm năng chuyển đổi/hỗ trợ cấp nước cho khu vực miền núi phía Bắc chú trọng các vùng khó khăn, khan hiếm nước; Nội dung 2: Nghiên cứu đề xuất các giải pháp cải tạo/chuyển đổi trạm thuỷ điện nhỏ sang cấp nước sinh hoạt, sản xuất cho vùng khó khăn, khan hiếm nước; Nội dung 3: Nghiên cứu cơ chế, chính sách sử dụng/chuyển đổi thủy điện nhỏ sang cấp nước phục vụ sinh hoạt, sản xuất; Nội dung 4: Hướng dẫn thiết kế một số giải pháp sử dụng/chuyển đổi các trạm thuỷ điện nhỏ sang tạo nguồn cấp nước sinh hoạt và sản xuất; Nội dung 5: Hội thảo, tổng kết nghiệm thu nhiệm vụ.

Qua các báo cáo được trình bày tại Hội thảo, tổng hợp các kết quả của đề tài đã đạt được, gồm có: Nhận diện các thuận lợi và khó khăn khi thực hiện chuyển đổi: Quyết định chuyển đổi thuỷ điện nhỏ sang cấp nước chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố phức tạp và đa chiều. Các yếu tố tác động đến quyết định chuyển đổi thủy điện nhỏ sang cấp nước như: Yếu tố kỹ thuật; Yếu tố kinh tế; Yếu tố môi trường; Yếu tố xã hội; Yếu tố pháp lý và chính sách. Nghiên cứu đã thực hiện phân tích SWOT kết hợp AHP để đánh giá các yếu tố. Kết quả cho thấy chính sách và các hỗ trợ của Nhà nước là yếu tố giữ vai trò quyết định hàng đầu đối với sự thành công của quá trình chuyển đổi. Bên cạnh đó, các điểm mạnh nội tại như cơ sở hạ tầng sẵn có của công trình và cơ hội từ nhu cầu nước sạch cao tại địa phương cũng tạo thuận lợi đáng kể. Ngược lại, thiếu vốn đầu tư cho cải tạo và vướng mắc pháp lý trong việc chuyển giao tài sản, quản lý công trình là những trở ngại lớn nhất cần được tháo gỡ.

Xây dựng nền tảng WebGIS hiển thị thông tin các công trình thủy điện nhỏ (355 công trình) và các xã khan hiếm nước (287 xã), thể hiện đối tượng nghiên cứu một cách trực quan, hỗ trợ tra cứu minh bạch, phục vụ quy hoạch, lập đề án xây dựng.

Xây dựng được Bộ tiêu chí và lựa chọn các trạm thuỷ điện có tiềm năng chuyển đổi: Đề tài đã xây dựng tiêu chí theo nhu cầu và đối tượng dùng nước, cột nước yêu cầu, hiện trạng kỹ thuật – hạ tầng hiện hữu và đặc trưng nguồn nước tại trạm; làm nền tảng cho sàng lọc, xếp hạng ưu tiên. Kết quả áp dụng phương pháp phân tích thứ bậc (AHP), đã xác định 13 trạm có khả năng chuyển đổi cao, các trạm này có vị trí thuận lợi, hiện trạng kết cấu tốt, lưu lượng nước ổn định, phù hợp để bổ sung nhiệm vụ cấp nước hoặc chuyển đổi công năng; 12 trạm có tiềm năng chuyển đổi, các trạm này cần nghiên cứu thêm về kỹ thuật và kinh tế để đảm bảo tính khả thi; 31 trạm ít tiềm năng, các trạm này gặp hạn chế về địa hình, kết cấu và nguồn nước, khó thực hiện chuyển đổi hiệu quả.

Phân tích xác định các kịch bản chuyển đổi: Tuỳ theo hiện trạng vận hành, chủ sở hữu nhà máy thủy điện và mục tiêu dự án sau chuyển đối (cấp nước đơn thuần hay đa mục tiêu), đề tài đã chia ra làm 7 kịch bản chuyển đổi: i) Chuyển đổi hoàn toàn công năng thuỷ điện nhỏ sang cấp nước: áp dụng cho các thuỷ điện siêu nhỏ (P ≤ 1 MW) và các thuỷ điện nhỏ hoạt động kém hiệu quả: 1) TH 1: thuỷ điện (P ≤ 1 MW) thuộc Chủ sở hữu Nhà nước chuyển hoàn toàn sang cấp nước; 2) TH 2: thuỷ điện (P ≤ 1 MW) thuộc Chủ sở hữu Tư nhân chuyển hoàn toàn sang cấp nước; 3) TH 3: thuỷ điện (1 < P ≤ 10 MW) thuộc Chủ sở hữu Nhà nước chuyển hoàn toàn sang cấp nước (duy trì cấp điện tự dùng cho hạ tầng cấp nước sau chuyển đổi); 4) TH 4: thuỷ điện (1 < P ≤ 10 MW) thuộc Chủ sở hữu Tư nhân chuyển hoàn toàn sang cấp nước (duy trì cấp điện tự dùng cho hạ tầng cấp nước sau chuyển đổi); ii) Chuyển đổi đa mục tiêu (kết hợp phát điện và cấp nước): áp dụng cho các trạm thuỷ điện nhỏ đang hoạt động tốt: 5) TH 5: thuỷ điện (1 < P ≤ 10 MW) thuộc Chủ sở hữu Nhà nước chuyển đổi đa mục tiêu (cấp điện, cấp nước), ưu tiên cao cho nước vào mùa khô hạn; 6) TH 6: thuỷ điện (1 < P ≤ 10 MW) thuộc Chủ sở hữu Tư nhân chuyển đổi đa mục tiêu (cấp điện, cấp nước), ưu tiên cao cho nước vào mùa khô hạn; 7) TH 7: thuỷ điện nhỏ (10 < P ≤ 30 MW) thuộc Chủ sở hữu Tư nhân chuyển đổi đa mục tiêu (cấp điện, cấp nước), ưu tiên cao cho nước vào mùa khô hạn.

Đề xuất giải pháp công nghệ chuyển đổi thuỷ điện nhỏ sang cấp nước theo 5 mô hình điển hình, phù hợp điều kiện địa hình - thủy văn và nhu cầu nước, gồm: (1) trạm bơm thủy luân (15 trạm); (2) bơm PAT kết hợp bơm cao áp đa tầng theo hướng dẫn KaWaTech (07 trạm); (3) lấy nước tự chảy sau nhà máy (14 trạm); (4) bơm lấy nước sau nhà máy dùng năng lượng mặt trời (10 trạm); (5) lấy nước sau nhà máy dùng điện từ nhà máy (10 trạm). Các mô hình đều kèm sơ đồ công nghệ, giải pháp nguồn nước – kết cấu, tổ chức quản lý vận hành, quy mô phục vụ/cột nước, ưu–nhược điểm cho hai trường hợp: chuyển đổi hoàn toàn và chuyển đổi đa mục tiêu.

Đề xuất giải pháp thể chế - chính sách, đảm bảo pháp lý và đẩy nhanh hiệu quả chuyển đổi, bao gồm: i) Hoàn thiện thể chế, tạo dựng khung pháp lý cho sự chuyển đổi (sửa đổi Luật Điện lực; ban hành Nghị định/Thông tư hướng dẫn về quản lý và chuyển đổi công năng thủy điện nhỏ); ii) Có các chính sách tạo động lực cho nhà đầu tư (chính sách tài chính, chính sách bù đắp doanh thu điện bị sụt giảm, chính sách về giá nước đảm bảo bền vững tài chính doanh nghiệp và khả năng tiếp cận cho người dân); iii) Thiết lập cơ chế "một cửa liên thông" thực chất ở cấp tỉnh để giải quyết hiệu quả thủ tục pháp lý dự án chuyển đổi.

Đề xuất giải pháp mô hình quản trị vận hành theo kịch bản chuyển đổi: Trên cơ sở Bộ tiêu chí tổng hợp, được xây dựng dựa trên ba trụ cột phát triển bền vững và nguyên tắc quản trị đa bên, áp dụng phân tích đa tiêu chí (MCDA) để xếp hạng thứ tự ưu tiên các mô hình quản trị vận hành theo 7 kịch bản chuyển đổi. Kết quả phân tích chỉ ra quy luật lựa chọn nhất quán: (i) với công trình siêu nhỏ hoặc vận hành kém hiệu quả, các mô hình công-cộng (Đơn vị sự nghiệp công lập; Liên kết đơn vị sự nghiệp công lập + Hợp tác xã) trội hơn về tính ổn định kỹ thuật, độ bao phủ và tuân thủ môi trường; (ii) với công trình tư nhân, quy mô nhỏ, mô hình Doanh nghiệp tư nhân, liên kết Doanh nghiệp tư nhân + Hợp tác xã cho phép triển khai nhanh, duy trì động lực hiệu quả và tăng chấp nhận xã hội; (iii) với công trình quy mô lớn hơn, Hợp tác công-tư (PPP) là lựa chọn tối ưu để huy động vốn, phân bổ rủi ro hoặc DNTN+HTX tăng đồng thuận cộng đồng.

TS. Đỗ Ngọc Ánh báo cáo chuyên đề 1 về các vấn đề như thực trạng, tiềm năng và đề xuất chiến lược chuyển đổi thủy điện nhỏ sang cấp nước sinh hoạt, nước sản xuất khu vực miền núi phía Bắc; Giới thiệu sản phẩm bản đồ trực tuyến WebGIS công trình thủy điện nhỏ và các xã khan hiếm nước vùng miền núi phía Bắc; Giới thiệu kết quả xếp hạng thức tự ưu tiên các trạm thủy điện nhỏ có tiềm năng chuyển đổi sang cấp nước

ThS. Trần Quốc Nam báo cáo chuyên đề 2: Các công nghệ bơm không dùng điện kiến nghị sử dụng trong dự án chuyển đổi thủy điện nhỏ sang cấp nước vùng miền núi phía Bắc

TS. Nguyễn Hồng Trường báo cáo chuyên đề 3: Cơ sở lý luận và giải pháp thể chế, chính sách chuyển đổi thủy điện nhỏ sang cấp nước ở vùng miền núi phía Bắc; Mô hình quản trị vận hành dự án chuyển đổi thủy điện nhỏ sang cấp nước tại vùng miền núi phía Bắc

Các đại biểu có mặt tại Hội thảo đều nhất trí cho rằng Đề tài có khối lượng công việc lớn, dữ liệu nhiều; Chủ nhiệm Đề tài và Nhóm thực hiện có nhiều nỗ lực và đầu tư công sức để báo cáo kết quả của đề tài đạt được mục tiêu nhiệm vụ đề ra, các nội dung thực hiện, kết quả đã bám vào đề cương được duyệt. Các kết quả trình bày đã cho thấy bức tranh tổng thể về thực trạng thuỷ điện nhỏ, hệ thống hóa nền tảng lý luận, nhận diện các điểm thuận lợi và khó khăn, đưa ra các giải pháp về thể chế chính sách, các giải pháp công nghệ và mô hình quản trị vận hành phù hợp cho các kịch bản chuyển đổi thuỷ điện nhỏ sang cấp nước.

Bên cạnh những ưu điểm đã đạt được, các nhà quản lý, chuyên gia, nhà khoa học đề nghị Chủ nhiệm Đề tài và thành viên nhóm thực hiện chỉnh sửa trước khi nghiệm thu như làm rõ tính khả thi về công nghệ và chính sách để huy động được nguồn lực đầu tư, hiệu quả đầu tư; bổ sung tổng giá trị tài sản của hệ thống thủy điện; ước tính chi phí bảo trì sau này; xem xét việc chuyển đổi có phù hợp với quy hoạch không; chi tiết hơn phần hướng dẫn kỹ thuật, lộ trình thực hiện khi chuyển đổi; cần phải có ý kiến bằng văn bản chấp thuận của các địa phương và chủ đầu tư; chi tiết hơn phần hướng dẫn kỹ thuật, lộ trình thực hiện khi chuyển đổi; cần phải có ý kiến bằng văn bản chấp thuận của các địa phương và chủ đầu tư; thống kê chi tiết hơn các nhà máy thủy điện đang hoạt động và dừng hoạt động, nêu lý do cụ thể; đối với thể chế chính sách cần chi tiết hơn việc quản lý và sử dụng nguồn thu,…

Thay mặt cho Nhóm thực hiện Đề tài, TS. Đỗ Ngọc Ánh - Chủ nhiệm Đề tài đã gửi lời cảm ơn các ý kiến góp ý của các nhà quản lý, chuyên gia, nhà khoa học có mặt tại Hội thảo và sẽ tiếp thu mọi ý kiến góp ý, hoàn thiện và chỉnh sửa trước khi nghiệm thu ở các cấp tiếp theo.

H.T

Ý kiến góp ý: