Hạn chế khai thác cát, nước ngầm để giảm thiểu sụt lún, sạt lở bờ sông
09/03/2022Theo nhận định của các chuyên gia, thời gian gần đây vùng ÐBSCL xuất hiện hiện tượng sụt lún và sạt lở bờ sông đến mức nghiêm trọng, đe dọa sinh kế, sản xuất của người dân trong vùng. Nguyên nhân của hiện tượng trên được xác định từ biến đổi khí hậu (BÐKH), khai thác tài nguyên quá mức của con người. Từ đó, các giải pháp ứng phó, hạn chế hiện tượng sụt lún, sạt lở đất được ngành chức năng, nhà khoa học đặt ra, cần sự nỗ lực ứng phó của các địa phương trong vùng.
Khu vực bờ sông Ô Môn (TP Cần Thơ) bị sạt lở đã được xây dựng bờ kè phòng, chống sạt lở và bảo vệ dân cư dọc theo bờ sông |
Nguyên nhân sạt lở
ÐBSCL là vùng đất rộng lớn chiếm 12% diện tích và khoảng 19% dân số của Việt Nam. Nhiều chuyên gia nhận định, từ hàng ngàn năm nay, vùng đất ÐBSCL đang nén lại và chìm dần. Quá trình này được bù đắp bởi bồi lắng phù sa trong suốt mùa lũ và bề mặt đất nằm trên mực nước biển. Trong một vài thập kỷ qua, ngập lụt và bồi lắng phù sa đã giảm đi đáng kể nhưng quá trình nén nền đất tiếp tục gây ra sụt lún, sạt lở đất... Ông Trần Thái Nghiêm, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) TP Cần Thơ đánh giá, sạt lở trên hệ thống các sông ở ÐBSCL diễn biến hết sức phức tạp cả về phạm vi lẫn mức độ ảnh hưởng. Ông Trần Thái Nghiêm cho biết: "Tại TP Cần Thơ, giai đoạn 2010-2020, trên địa bàn có 226 điểm sạt lở với chiều dài 9km. Riêng năm 2021, TP Cần Thơ đã xảy ra 23 điểm sạt lở, gây nhiều thiệt hại, ảnh hưởng đến đời sống và kinh tế của người dân tại địa phương".
Theo Bộ NN&PTNT, qua thống kê, đến tháng 12-2021, khu vực ÐBSCL có 621 điểm sạt lở với tổng chiều dài 610km. Trong đó, sạt lở đặc biệt nguy hiểm có 147 điểm với chiều dài 127km; sạt lở nguy hiểm có 137 điểm với tổng chiều dài 193km; còn lại là các điểm sạt lở bình thường. Trong đó, các tỉnh như An Giang, Cà Mau và Tiền Giang là những địa phương có nhiều điểm sạt lở nhất. Riêng, tỉnh An Giang, Ðồng Tháp, Vĩnh Long, Tiền Giang và TP Cần Thơ là những địa phương có nhiều điểm sạt lở nguy hiểm và đặc biệt nguy hiểm ở ÐBSCL. Gần đây, tại hội thảo "Khởi động triển khai hoạt động xây dựng ngân hàng cát và kế hoạch duy trì ổn định hình thái sông ở ÐBSCL", ông Lê Thanh Chương, đại diện Bộ NN&PTNT, cho biết: "Qua các nghiên cứu và tổng hợp, ÐBSCL có gần 30 hố xói sâu trên sông Tiền và sông Hậu, trong đó tập trung ở các khu vực như Tân Châu, Châu Ðốc, Mỹ Thuận, Sa Ðéc và Thanh Bình… Các hố sâu này có những điểm xuất hiện âm hơn 40 mét và rất nguy hiểm cho ổn định bờ sông, có thể gây sạt lở nghiêm trọng".
Sạt lở ở khu vực ÐBSCL, theo Bộ NN&PTNT có nhiều nguyên nhân, trong đó, có những nguyên nhân chính: thứ nhất là yếu tố dòng chảy gây sạt lở, nhất là ở khu vực đoạn sông cong; thứ hai là yếu tố địa chất của khu vực bờ sông yếu, khả năng chống xói lở kém; thứ ba là việc xây dựng các công trình, hồ đập ở thượng lưu sông Mekong dẫn đến giảm sút lượng bùn cát về ÐBSCL; thứ tư là vấn đề phát triển hạ tầng ven sông; thứ năm là khu vực sông ngòi chằng chịt nên phương tiện giao thông thủy di chuyển cũng là yếu tố gây sạt lở bờ sông. Ðặc biệt, việc khai thác cát dẫn đến hạ thấp đáy sông, làm thay đổi dòng chảy dẫn đến tăng nguy cơ sạt lở bờ sông.
Gần đây, một nghiên cứu quốc tế (Bravard và nhóm nghiên cứu) cho thấy, tổng lượng cát bị khai thác ở lưu vực sông Mê Công khoảng 50 triệu tấn/năm, trong đó, Campuchia khai thác 30 triệu tấn/năm; Việt Nam 12,4 triệu tấn/năm; Thái Lan 6 triệu tấn/năm; Lào 1,5 triệu tấn/năm. Riêng tại Việt Nam, qua các tài liệu thu thập được, ông Lê Thanh Chương cho biết lượng khai thác cát được cấp phép hằng năm ở các tỉnh ÐBSCL là 15 triệu m3/năm. Tuy nhiên, số liệu có thể lớn hơn nhiều so với các tài liệu công bố, có thể lên cao gấp đôi con số mà nhóm nghiên cứu công bố. Trong khi lượng cát bị lấy đi lớn, nhưng lượng phù sa, bùn cát từ thượng nguồn về ÐBSCL sụt giảm càng khiến tình trạng sụt lún, sạt lở xảy ra ngày càng nghiêm trọng hơn. Theo đó, trước đây lượng phù sa về ÐBSCL mỗi năm 150-160 triệu tấn/năm. Tuy nhiên, qua các nghiên cứu cho thấy, lượng phù sa về ÐBSCL hiện tại chỉ còn khoảng 25-35% so với trước đây và trong tương lai có thể tiếp tục giảm, còn dưới 10% khi các đập thủy điện trên dòng chính và dòng nhánh được xây dựng…
Giải pháp hạn chế
Các tác động dẫn đến xói lở kênh rạch từ việc giảm lượng phù sa hay khai thác cát phục vụ phát triển hạ tầng sẽ tiếp tục trong thời gian tới, cho nên, tình trạng sạt lở, sụt lún bờ sông sẽ tiếp tục diễn ra cả về mặt cường độ lẫn phạm vi. Ðể hạn chế tình trạng sạt lở bờ sông, tại hội thảo "Khởi động triển khai hoạt động xây dựng ngân hàng cát và kế hoạch duy trì ổn định hình thái sông ở ÐBSCL", ông Lê Thanh Chương gợi ý, vùng ÐBSCL cần có phương án quy hoạch chỉnh trị tổng thể hệ thống sông rạch lớn, đảm bảo vừa chống được sạt lở, vừa đảm bảo được sự phát triển bền vững.
Ðối với các công trình kiên cố phòng chống sạt lở cần đầu tư tập trung ở những khu vực trọng điểm, nhất là khu vực đông dân cư, khu vực cơ sở hạ tầng và khu vực những công trình lớn ảnh hưởng đến lòng sông… Bên cạnh đó cũng có những ý kiến của một số chuyên gia cho rằng trong bối cảnh lượng bùn cát từ thượng nguồn về vùng ÐBSCL ngày càng hạn chế, thì cần thiết phải tìm vật liệu khác để thay thế trong phục vụ phát triển kinh tế, tránh khai thác cát quá mức như hiện nay.
Các nhà khoa học ở ÐBSCL cũng cho rằng việc khai thác tài nguyên cát, nước ngầm là một yếu tố góp phần gây sụt lún, sạt lở đất, song cho dù có ngừng khai thác cát, nước ngầm hoàn toàn thì cũng không thể ngăn chặn được hiện tượng này. Tuy nhiên, tốc độ sụt lún, sạt lở có thể nhờ đó mà được giảm thiểu. PGS.TS Nguyễn Hiếu Trung, Phó Hiệu trưởng Trường Ðại học Cần Thơ, nhận định: "Ðể góp phần hạn chế tốc độ sụt lún, sạt lở, các địa phương vùng ÐBSCL cần ứng dụng các giải pháp cơ sở hạ tầng xanh nhằm làm mới lại các khu vực công cộng trong trung tâm đô thị để tăng không gian cho tích trữ nước, thẩm thấu nước mưa tại các khu vực phát triển đô thị và các công trình cơ sở hạ tầng công cộng mới, nhằm giải phóng áp lực cho hệ thống nước ngầm. Ðặc biệt, cơ sở hạ tầng xanh sẽ bồi đắp lại lượng nước ngầm thiếu hụt, góp phần hạn chế sụt lún đất trong tương lai… Riêng, tại TP Cần Thơ - Trung tâm đô thị vùng ÐBSCL cần tiếp tục lập quy hoạch và triển khai thực hiện cơ sở hạ tầng xanh cho tất cả các quận (Ninh Kiều, Bình Thủy, Cái Răng…) để thực hiện giải pháp toàn diện cơ sở hạ tầng xanh tăng cường khả năng chống chịu cho các quận nêu trên…".
Nhiều chuyên gia, nhà khoa học cũng cho biết các yếu tố góp phần gây sụt lún, sạt lở đất như khai thác nước ngầm, khai thác cát từ sông… cần được cơ quan chức năng, những người có thẩm quyền ra quyết định hạn chế hoặc ngưng thực hiện để giảm thiểu sụt lún, sạt lở đất; xác định các giải pháp thích ứng và sống chung với sụt lún đất, hạn chế sạt lở bờ sông. Trong bối cảnh này, những quy định về hạn chế khai thác cát cần nghiêm khắc hơn và thực hiện hiệu quả hơn…
Nguồn: Báo điện tử Cần Thơ
Ý kiến góp ý: