Hội thảo công bố kết quả nghiên cứu của Ngân hàng thế giới: “Việt Nam: Hướng tới một hệ thống nước có tính thích ứng, sạch và an toàn”
03/06/2019Chiều ngày 30/5, tại Hà Nội, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã phối hợp với Ngân hàng thế giới tổ chức Hội thảo công bố kết quả nghiên cứu độc lập của Ngân hàng thế giới “Việt Nam: Hướng tới một hệ thống nước có tính thích ứng, sạch và an toàn”. Bộ trưởng Bộ TN&MT Trần Hồng Hà chủ trì Hội thảo. Đồng chủ trì Hội thảo với Bộ trưởng có ông Ousmane Dione, Giám đốc quốc gia Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam.
Tham dự Hội thảo có Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Lê Công Thành, nguyên Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hoàng Văn Thắng; Cục trưởng Cục Quản lý tài nguyên nước Hoàng Văn Bẩy cùng đại diện các Ban, Bộ, Ngành, địa phương; các viện nghiên cứu, các Trường đại học; các doanh nghiệp; các Đại sứ quán và các Tổ chức quốc tế tại Việt Nam. Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Trần Hồng Hà phát biểu khai mạc Hội thảo Phát biểu khai mạc Hội thảo, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Trần Hồng Hà cho biết, Việt Nam là một nước ở hạ lưu các sông quốc tế, thường xuyên phải gánh chịu các thảm họa do nước gây ra, phải đối mặt với tình trạng khan hiếm nước và suy giảm nguồn nước do khai thác quá mức ở nhiều nơi, bởi vậy tài nguyên nước của Việt Nam đang ẩn chứa nhiều yếu tố thiếu bền vững cho phát triển. Tổng lượng dòng chảy mặt trên lãnh thổ Việt Nam vào khoảng 830 tỷ m3, trong đó khoảng 63% dòng chảy có nguồn gốc từ các quốc gia khác. Tính đến năm 2018, tổng lượng nước bình quân đầu người của Việt Nam đạt khoảng 8.760 m3/người/năm, nếu tính theo lượng nước nội sinh thì chỉ đạt khoảng 3.250 m3/người/năm, thấp hơn chuẩn của quốc gia theo quan điểm của Hiệp hội Nước quốc tế trung bình là 10.000 m3/người/năm và thiếu nước là 4000 m3/người/năm. Bên cạnh đó dòng chảy phân bố không đều theo mùa và theo vùng, trong đó 70 - 80% tổng lượng dòng chảy tập trung trong mùa lũ, mùa khô kéo dài từ 6 đến 9 tháng với tổng lượng dòng chảy chỉ chiếm khoảng 20 - 30%, nên nhiều lưu vực sông đã ở tình trạng khan hiếm nước vào mùa khô. Việt Nam cũng là một trong các quốc gia chịu tác động lớn nhất của biến đổi khí hậu. Do tác động của biến đổi khí hậu, nguồn nước mùa khô có xu hướng suy giảm, hạn hán kéo dài hơn và diễn ra nghiêm trọng hơn, nhiều khu vực nước ngọt bị xâm nhập mặn và ô nhiễm gia tăng, khả năng chống chịu với thiên tai suy giảm, đặc biệt là hạn hán sẽ tạo ra thách thức lớn đối với bảo đảm an ninh nguồn nước và phát triển bền vững. “Cùng với áp lực từ gia tăng dân số, tăng trưởng kinh tế và nhu cầu sử dụng nước ngày càng cao, tài nguyên nước có nguy cơ cạn kiệt. Những áp lực này sẽ tạo nên các yếu tố kém bền vững cho phát triển nếu tài nguyên nước không được quản lý một cách thống nhất và được chia sẻ, khai thác một cách hợp lý, hiệu quả.” - Bộ trưởng Trần Hồng Hà cũng nhấn mạnh tại Hội thảo. Tại Hội thảo, thay mặt lãnh đạo Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ trưởng Trần Hồng Hà ghi nhận và đánh giá cao Báo cáo Nghiên cứu độc lập của Ngân hàng Thế giới với chủ đề: “Việt Nam - Hướng tới một hệ thống nước có tính thích ứng, sạch và an toàn” vừa được công bố. Bộ trưởng cũng cho rằng, Báo cáo Nghiên cứu độc lập của Ngân hàng Thế giới đã đưa ra một bức tranh tương đối đầy đủ về hiện trạng tài nguyên nước và công tác quản lý tài nguyên nước ở Việt Nam, cụ thể: Một là, Báo cáo đã chỉ ra những thực trạng đáng báo động của tài nguyên nước Việt Nam: nhiều lưu vực sông đã ở mức cạn kiệt; chất lượng nước suy giảm đáng kể. Nước sử dụng cho nông nghiệp chiếm khoảng 80% tổng lượng nước của Việt Nam nhưng còn sử dụng chưa hiệu quả, lãng phí. Với mỗi đơn vị m3 nước Việt Nam sử dụng chỉ tạo ra 2,37 USD cho GDP, khoảng 1/10 so với trung bình toàn cầu là 19,42 USD. Theo dự báo trong mùa khô tổng nhu cầu sử dụng nước sẽ tăng 32% vào năm 2030, căng thẳng nước sẽ diễn ra nghiêm trọng tại các lưu vực kinh tế trọng điểm. Nghiên cứu chỉ ra mức độ khai thác, sử dụng nước ở các lưu vực sông Hồng - Thái Bình, cụm sông Đông Nam Bộ, và Đồng Nai tăng quá nhanh và đang tiến tới mức không bền vững; các lưu vực này đóng góp 80% GDP của Việt Nam. Sự gia tăng nhanh chóng của nhu cầu nước được dự báo sẽ gây áp lực cho nguồn nước tại hấu hết các lưu vực sông tại Việt Nam vào năm 2030. Hai là, Báo cáo cũng chỉ ra nhiều Bộ, ngành cùng tham gia vào công tác quản lý tài nguyên nước và nhiều luật điều chỉnh công tác quản lý tài nguyên nước gây khó khăn cho thực hiện quản lý tài nguyên nước thống nhất theo lưu vực, cả nước mặt và nước dưới đất, cả số lượng nước và chất lượng nước; khung pháp lý đã có nhưng thực thi còn chưa hiệu quả; cơ chế xử phạt chưa đủ răn đe; thiếu đầu tư lớn cho xử lý nước thải công nghiệp và đô thị; chưa có cơ chế, chính sách hiệu quả làm giảm ô nhiễm nguồn nước do sử dụng phân bón, chất hóa học trong ngành nông nghiệp; ô nhiễm từ nước thải chăn nuôi.v..v… Bên cạnh đó, Báo cáo cũng nêu ra cảnh báo nếu không có các hành động can thiệp để ngăn chặn các mối đe dọa này, nền kinh tế Việt Nam cũng có thể bị tổn thất khoảng 6% GDP mỗi năm từ năm 2035. Ba là, Báo cáo cũng đã đưa ra các khuyến nghị và các nhóm giải pháp chính mà Việt Nam cần thực hiện để giải quyết các thách thức hướng tới đạt được mục tiêu phát triển bền vững tài nguyên nước. Bộ trưởng cũng cho rằng, mặc dù số liệu sử dụng trong Báo cáo được tổng hợp từ nhiều nguồn khác nhau, có những số liệu cần kiểm chứng thêm, nhưng Báo cáo đã chỉ ra được những thách thức đối với tài nguyên nước và công tác quản lý tài nguyên nước mà Việt Nam đang đối mặt, đã khuyến nghị những định hướng hành động cần triển khai để giải quyết các thách thức này. Thay mặt Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ trưởng Trần Hồng Hà trân trọng cảm ơn Ngân hàng Thế giới đã thực hiện một nghiên cứu có giá trị sử dụng và hàm lượng khoa học cao đối với lĩnh vực quản lý tài nguyên nước. Ông Ousmane Dione, Giám đốc quốc gia Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam phát biểu tại Hội thảo Phát biểu đồng tình với quan điểm với Bộ trưởng, ông Ousmane Dione, Giám đốc quốc gia Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam cũng cho rằng, nước là sự sống hay tài nguyên nước chính là chìa khóa để thúc đẩy tốc độ tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam. Ông Ousmane Dione cũng đánh giá cao những tiến bộ mà ngành nước Việt Nam đã đạt được trong thời gian qua, trong đó có những ghi nhận của Ngân hàng thế giới về việc hoàn thiện chính sách trong quản lý tài nguyên nước và đạt được tỷ lệ cao về tỷ lệ người dân được sử dụng nước an toàn. Tuy nhiên, Giám đốc quốc gia Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam cũng cho rằng, đã có sự xuất hiện những thách thức mới đối với ngành nước Việt Nam, đây cũng chính là thách thức của nền kinh tế đang trưởng thành trong bối cảnh biến đổi khí hậu giống như nhiều quốc gia khác trên thế giới. Theo đó, để giải quyết những thách thức này, Ông Ousmane Dione cũng cho rằng, các cấp quản lý cần có những hành động quyết liệt hơn, đòi hỏi sự thay đổi mô hình trong quản trị ngành nước làm sao để thích ứng với sự thay đổi của thiên nhiên, hướng đến một hệ thống nước có tính sạch và an toàn sẽ là yếu tố chủ chốt giúp Việt Nam phát triển thịnh vượng hơn. Ông Ousmane Dione cũng chia sẻ, các khuyến nghị trong Nghiên cứu độc lập của Ngân hàng Thế giới được chia sẻ tại Hội thảo hôm nay nhằm cải thiện việc quản trị, quản lý, và cơ chế tài chính cho tài nguyên nước, bao gồm việc tăng cường năng lực cho các cơ quan chịu trách nhiệm hoạch định và thực thi các quy định về quản lý nước. Báo cáo cũng ủng hộ việc áp dụng cách tiếp cận tổng hợp ở quy mô lưu vực sông, đồng thời xây dựng cơ chế khuyến khích việc giảm thiểu ô nhiễm và sử dụng nước hiệu quả hơn. Hơn nữa, cần có cải thiện trong công tác ứng phó với thiên tai và đảm bảo khả năng chống chịu trước các hiện tượng lũ lụt gia tăng, xói lở bờ sông bờ biển với tốc độ nhanh hơn, tình trạng nước biển dâng và sụt lún đất. Bên cạnh đó, cải thiện chất lượng chi tiêu công và khuyến khích huy động nguồn vốn tư nhân là một việc cần thiết phải làm, để mở rộng nguồn tài chính cho cải thiện công tác quản lý tài nguyên nước. Đại diện Ngân hàng Thế giới chia sẻ các kết quả nghiên cứu tại Hội thảo Tại Hội thảo, đại diện Ngân hàng Thế giới cũng đánh giá cao mối quan hệ hợp tác với Chính phủ Việt Nam trong lĩnh vực quản lý tài nguyên nước. “Ngân hàng Thế giới sẽ tiếp tục làm việc chặt chẽ với các cơ quan chức năng của Việt Nam để hỗ trợ việc thực hiện những khuyến nghị trong báo cáo một cách hợp lý, hiệu quả, bền vững, tài nguyên nước trong bối cảnh biến đổi khí hậu…” - ông Ousmane Dione, Giám đốc quốc gia WB tại Việt Nam nhấn mạnh tại Hội thảo. Thảo luận tại Hội thảo, đại diện Ngân hàng Thế giới và các chuyên gia đã trình bày, trao đổi nhiều vấn đề liên quan đến công tác quản lý tài nguyên nước của Việt Nam. Phát biểu kết luận Hội thảo, Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Lê Công Thành cho biết, Bộ Tài nguyên và Môi trường hoàn toàn nhất trí với các báo cáo mà Ngân hàng Thế giới công bố hôm nay. “Trong thời gian tới, Bộ Tài nguyên và Môi trường sẽ nghiên cứu một cách kỹ càng, khoa học và sẽ đề ra kế hoạch hành động cụ thể để tiếp thu những đề xuất của các báo cáo vừa lập, nhằm tăng cường hơn nữa cho công tác quản lý tài nguyên nước trong thời gian tới” - Thứ trưởng Lê Công Thành nhấn mạnh tại Hội thảo. Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Lê Công Thành phát biểu kết luận Hội thảo Thứ trưởng cũng cho rằng, qua Báo cáo độc lập của Ngân hàng Thế giới cho chúng ta nhận thức được một điều rằng, nước là tài sản quý giá cần phải sử dụng hiệu quả và khôn ngoan hơn; cần tiếp tục quản lý bền vững tài nguyên nước để trở thành động lực quan trọng trong tiến trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Thứ trưởng cũng mong muốn Ngân hàng Thế giới và các tổ chức quốc tế, các chuyên gia, hiệp hội ngành nghề sẽ tiếp tục đồng hành cùng ngành Tài nguyên và Môi trường để cùng lan tỏa, góp phần thay đổi nhận thức của cộng đồng về nguồn tài nguyên vô cùng giá trị này. Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Trần Hồng Hà và các đại biểu tham dự Hội thảo chụp ảnh lưu niệm Báo cáo của Nghiên cứu độc lập của Ngân hàng Thế giới với chủ đề: “Việt Nam - Hướng tới một hệ thống nước có tính thích ứng, sạch và an toàn” vừa được công bố gồm 3 phần: Phần 1: Thúc đẩy hiệu quả - Nhu cầu gia tăng và sự cần thiết phải nâng “giá trị trên mỗi đơn vị nước sử dụng” gồm các nội dung như: Tăng hiệu suất sử dụng nước tưới cho nông nghiệp; Đảm bảo cấp nước và các dịch vụ về nước sinh hoạt cho khu vực đô thị và nông thôn… Phần 2: Giảm thiểu các các mối đe dọa - Quá thiếu Quá thừa, Quá bẩn… gồm các nội dung: Ô nhiễm nguồn nước - Mối đe dọa tiềm ẩn đến phát triển bền vững; Quản lý rủi ro đang gia tăng… Phần 3: Nâng cao quản trị - Khung quản trị, Đổi mới và tài chính gồm các nội dung: Khung quản trị nước của Việt Nam; Các sáng kiến tăng cường quản lý tài nguyên nước; Thực hiện đầu tư tài chính hiệu quả hơn và điều chỉnh các ưu đãi phù hợp với các mục tiêu… Theo đánh giá của các chuyên gia, đây là những kết quả nghiên cứu rất quý báu đối với công tác quản lý tài nguyên nước của Việt Nam. Theo dwrm.gov.vn
Ý kiến góp ý: