TextBody
Huy chương 2

Họp Hội đồng đánh giá luận án tiến sỹ kỹ thuật cấp Viện cho NCS. Nguyễn Hải Hà

14/11/2019

Ngày 13/11/2019, Cơ sở Đào tạo Viện Khoa học Thủy lợi Việt Nam đã tổ chức họp Hội đồng đánh giá Luận án Tiến sỹ kỹ thuật cấp Viện cho NCS. Nguyễn Hải Hà với Đề tài “Nghiên cứu xây dựng đường bao tải trọng giới hạn của nền đập Xà lan vùng đồng bằng sông Cửu Long”, Chuyên ngành kỹ thuật Xây dựng công trình thủy. Mã số: 958 02 02.

Tham dự buổi họp có PGS.TS. Nguyễn Vũ Việt - Giám đốc Viện - Trưởng Cơ sở Đào tạo của Viện - Chủ tịch Hội đồng, GS.TS. Trần Đình Hòa - Phó Giám đốc Viện - thầy giáo hướng dẫn; PGS.TS. Phạm Hồng Cường - Phó Trưởng Ban Tổ chức Hành chính; các chuyên gia, nhà khoa học thuộc chuyên ngành kỹ thuật xây dựng công trình thủy và bạn bè, người thân của NCS…

Ngoài ra còn có các thành viên trong Hội đồng đánh giá luận án.

 NCS. Nguyễn Hải Hà báo cáo các kết quả nghiên cứu của Luận án trước Hội đồng

Báo cáo trước Hội đồng, NCS. Nguyễn Hải Hà cho biết việc nghiên cứu đề xuất phương án kết cấu và giải pháp xây dựng các công trình ngăn sông để kiểm soát nguồn nước có một ý nghĩa chiến lược rất quan trọng trong phát triển kinh tế xã hội. Đập xà lan là một công nghệ mới, được áp dụng thử nghiệm lần đầu tiên vào năm 2003 tại Bạc Liêu, đến nay đã có gần 100 công trình được áp dụng tại ĐBSCL. Do tính ưu việt của công nghệ, triển vọng ứng dụng công nghệ này vào vùng ĐBSCL là rất lớn. Chính vì vậy, đề tài nghiên cứu “ Nghiên cứu xây dựng đường bao tải trọng giới hạn (TTGH) của nền đập xà lan vùng đồng bằng sông Cửu Long ” nhằm nghiên cứu phương pháp xây dựng đường bao tải trọng giới hạn của của móng đập xà lan trên nền đất yếu dưới tác dụng đồng thời của tải trọng đứng, ngang và mô men. Nội dung và kết quả nghiên cứu của luận án góp phần hoàn thiện lý thuyết và phương pháp tính toán ổn định ĐXL, đây là vấn đề vừa có ý nghĩa khoa học và thực tiễn.

Để đạt được mục tiêu xây dựng được đường bao tải trọng giới hạn của ĐXL trên nền đất yếu chịu tải trọng phức hợp (đứng, ngang và mô men), NCS. Nguyễn Hải Hà đã triển khai tổng quan vấn đề nghiên cứu; Nghiên cứu cơ sở khoa học và phương pháp xây dựng đường bao TTGH; Xây dựng đường bao TTGH; Ứng dụng kết quả nghiên cứu vào tính toán, kiểm tra cho công trình thực tế.

Qua quá trình triển khai các nội dung nghiên cứu, Đề tài luận án đã đạt được một số kết quả chính có thể kể đến đó là:

(1) Tổng quan một số dạng ĐXL trong nước và trên thế giới có gia cố nền. Tại Việt Nam, hầu hết các ĐXL đều được đặt trực tiếp trên nền không xử lý. Tổng kết qua nhiều công trình đã xây dựng, hầu hết móng ĐXL đặt trực tiếp nền đất yếu có đều có V/V0 ≤ 0,5. Trước đây để xét các công trình có V/V0 ≤ 0,5, các nghiên cứu thường chấp nhận H0 = A.su, công thức này chưa xét tới ảnh hưởng của tải trọng đứng tới khả năng chịu tải ngang của móng. Ngo Tran [50] có nghiên cứu về vùng này, tuy nhiên cũng chỉ giả thiết góc ma sát tiếp xúc bằng 300, mà không có luận giải tại sao chọn bằng 300. Trong thực tế ĐXL chủ yếu được đặt trực tiếp trên nền tự nhiên, khi đó góc ma sát tiếp xúc ≠ 300, đây là vấn đề chưa được nghiên cứu ở trong nước cũng như trên thế giới.

(2) Tiến hành thí nghiệm mô hình vật lý kéo trượt tấm nén bê tông trong trường hợp có tải trọng V, H tác dụng. Mô hình thí nghiệm kéo trượt tấm nén với bề rộng 0,2m; 0,3m và 0,4m trong máng thí nghiệm. Ứng với mỗi bề rộng móng thực hiện 3 cấp tải trọng đứng. Kết quả thu được góc MSTX là 24,30 của móng nông trên nền đất yếu không xử lý điển hình ở ĐBSCL chịu tải trọng phức hợp với V/V0 ≤ 0,5. Luận án cũng đã thực hiện thí nghiệm hiện trường kéo trượt tấm nén có bề rộng 0,7m và 1,0m tại hiện trường hố móng thi công cống Biện Nhị, huyện U Minh, Cà Mau, đối chiếu góc ma sát với thí nghiệm kéo trượt trong máng cho kết quả phù hợp. Luận án kiến nghị góc MSTX là 24,30 theo thí nghiệm kéo trượt.

(3) Phát triển được mô đun phần mềm Failure Envelope For Dam để xây dựng đường bao TTGH cho nền ĐXL vùng ĐBSCL. Việc xây dựng mô đun phần mềm cho phép nhập liệu, chia lưới tự động phân tích, xử lý kết quả xuất ra lập giúp quá trình phân tích đơn giản hơn nhiều và tự động hầu hết các công đoạn tính toán.

(4) Áp dụng công thức kiểm tra ổn định ĐXL (4-1) và (4-2) theo QCVN 04-05 để xây dựng biểu đồ tra thông số thiết kế cơ bản của ĐXL trong giai đoạn thiết kế sơ bộ.

Bên cạnh đó, Luận án đã có một số đóng góp mới như đã nghiên cứu tìm được được góc ma sát tiếp xúc của móng nông đặt trên nền đất yếu không xử lý, điển hình ở đồng bằng sông Cửu Long chịu tải trọng phức hợp đứng, ngang với ; Phát triển được công cụ (một mô đun phần mềm) để xây dựng họ đường bao tải trọng giới hạn cho nền đập Xà Lan vùng đồng bằng sông Cửu Long, phục vụ tính toán thiết kế sơ bộ và kiểm tra ổn định.

Sau khi nghe nhận xét và nghe các ý kiến của các thành viên phản biện, các thành viên trong Hội đồng, các chuyên gia, các nhà khoa học có mặt tại buổi lễ bảo vệ, Hội đồng đã bỏ phiếu kín. Thay mặt Hội đồng, Chủ tịch Hội đồng PGS.TS. Nguyễn Vũ Việt - Giám đốc Viện Khoa học Thủy lợi Việt Nam đã đọc Nghị quyết của Hội đồng. Theo đó, Đập xà lan là loại đập có nhiều ưu điểm như giá thành hợp lý, thi công đúc sẵn, lai dắt hạ chìm nên hạn chế làm thay đổi cảnh quan môi trường tự nhiên, phù hợp với điều kiện xây dựng tại ĐBSCL. Tuy nhiên, vấn đề kiểm tra ổn định công trình trên nền đất yếu khi không xử lý vẫn còn là một tồn tại về mặt lý thuyết khi tính toán nên đề tài luận án của NCS có tính cấp thiết;

Kết quả của Luận án đã bổ sung cơ sở lý thuyết, phương pháp luận nghiên cứu về mô hình thực nghiệm trong phòng, hiện trường và mô hình số có giá trị. Kết quả nghiên cứu có thể sử dụng tài liệu tham khảo trong giảng dạy, nghiên cứu; là căn cứ có giá trị cho các đơn vị quản lý, xây dựng và tư vấn thiết kế đối với công trình ĐXL được xây dựng ở ĐBSCL.

Luận án sử dụng nghiên cứu lý thuyết, mô hình toán, phương pháp nghiên cứu thực nghiệm trong phòng và hiện trường là phù hợp với nội dung nghiên cứu của đề tài để giải quyết các mục tiêu chính đã đề ra. Kết quả nghiên cứu của Luận án đảm bảo độ tin cậy.

Kết quả nghiên cứu đã xây dựng được tường bao tải trọng giới hạn áp dụng cho ĐXL ở ĐBSCL tương ứng với góc MSTX là 24,30 c. Tuy nhiên để có giá trị thực tiễn cao hơn, ngoài giới hạn chỉ sử dụng cho thiết kế cơ sở như trong Luận án đã nêu làm rõ phạm vi hay giới hạn về vật liệu, đặc điểm nền đất yếu; lỗi chính tả, hình vẽ mờ, các đơn vị, ký hiệu trong luận án; trích dẫn tài liệu tham khảo tại một số nội dung, hình vẽ.

Hội đồng đã tiến hành đánh giá luận án thông qua bỏ phiếu kín. Kết quả đánh giá 7/7 phiếu tán thành trong đó có 3/7 phiếu đánh giá xuất sắc

Hội đồng chấm luận án thống nhất đánh giá NCS. Nguyễn Hải Hà đáp ứng đủ yêu cầu và trình độ của một tiến sỹ kỹ thuật chuyên ngành kỹ thuật xây dựng công trình thủy. Hội đồng đề nghị  Cơ sở Đào tạo cấp bằng tiến sỹ  kỹ thuật cho NCS Nguyễn Hải Hà.

Hội đồng nhất trí 100% thông qua nghị quyết.

Thay mặt Cơ sở đào tạo Viện Khoa học Thủy lợi Việt Nam, Thủ trưởng cơ sở đào tạo - Chủ tịch Hội đồng - Giám đốc Viện Khoa học Thủy lợi Việt Nam PGS.TS. Nguyễn Vũ Việt đã tặng hoa chúc mừng NCS Nguyễn Hải Hà

Ý kiến góp ý: