TextBody
Huy chương 2

Khoa học công nghệ cần đi vào cuộc sống

26/04/2014

Đó là phát biểu của Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hoàng Văn Thắng tại buổi làm việc giữa Đoàn công tác của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn và Viện Nước Tưới tiêu và Môi trường - Viện Khoa học Thủy lợi Việt Nam ngày 16/4/2014. Tham dự cuộc họp về phía cơ quan Bộ có đại diện Vụ Khoa học công nghệ và Môi trường, Vụ Quản lý Nguồn nước, Vụ Khoa học Công nghệ và Hợp tác Quốc tế thuộc Tổng Cục Thủy lợi. Về phía Viện có đại diện Ban Giám đốc Viện Khoa học Thủy lợi Việt Nam, đại diện lãnh đạo các Ban tham mưu của Viện Khoa học Thủy lợi Việt Nam, các cán bộ chủ chốt của Viện Nước, Tưới tiêu và Môi trường và các nhà khoa học đầu ngành về lĩnh vực thủy nông và môi trường của Viện Khoa học Thủy lợi Việt Nam.

Tại Hội nghị, thay mặt Viện Nước, Tưới tiêu và Môi trường, PGS.TS. Đoàn Doãn Tuấn - Viện trưởng Viện Nước, Tưới tiêu và Môi trường báo cáo kết quả hoạt động khoa học công nghệ của Viện Nước, Tưới tiêu và Môi trường.

Theo báo cáo, từ năm 2006-2013, Viện đã thực hiện 11 đề tài, khoa học và công nghệ cấp Nhà nước, 16 đề tài cấp Bộ, 11 nhiệm vụ môi trường biến đổi khí hậu, 13 đề tài cấp cơ sở, 2 đề tài cấp tỉnh thuộc các lĩnh vực tài nguyên nước và biến đổi khí hậu, lĩnh vực tưới tiêu cải tạo đất, lĩnh vực môi trường. Hoạt động nghiên cứu khoa học và công nghệ của Viện đã tạo ra được nhiều kết quả thiết thực, đã nghiên cứu, áp dụng thành công trên khắp các tỉnh thành của cả nước, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp phát triển nông nghiệp và nông thôn. Điển hình như Viện đã ứng dụng thành công các mô hình toán NAM, MIKE11, MIKE21, GIS... vào cân bằng nước cho các lưu vực sông Hương, sông Mã, sông Cả, Vu Gia - Thu Bồn; xác định dòng chảy tối thiểu, dòng chảy kiệt theo tần suất, dự báo hạn và xâm nhập mặn theo thời gian thực lưu vực sông và các tỉnh ven biển, tính toán nhu cầu nước cho từng hệ thống thủy lợi, xây dựng bản đồ ngập lụt, hạn hán vùng đồng bằng sông Hồng, Nam Trung Bộ và tỉnh Tuyên Quang; Đã nghiên cứu phương pháp, chế độ tưới, kỹ thuật tưới cho các loại cây trồng tại Việt Trì, Hải Phòng, Thường Tín bao gồm phương pháp tưới cây trồng cạn, phương pháp tưới lúa, công nghệ tưới tiết kiệm nước cho cây trồng có giá trị kinh tế cao như nho, thanh long, chè, bưởi, cà phê, rau màu...; công nghệ thu trữ nước phục vụ dân sinh vùng hạn hán; áp dụng cho các khu vực đất dốc miền núi phía Bắc và các khu vực đất cát khô hạn như Quảng Trị, Ninh Thuận, Bình Thuận; ứng dụng công nghệ NEOWEB trong công trình thủy lợi gia cố hệ thống kênh tưới, tiêu, bảo vệ đê biển và các công trình ven biển, bảo vệ đê, kè sông, mái đập, thiết kế hồ chứa nước, bảo vệ taluy, mái dốc chống sạt lở, gia cố nền đường; Đưa ra các giải pháp quản lý, giảm thiểu ô nhiễm nước trong hệ thống công trình thủy lợi; nghiên cứu và ứng dụng thành công công nghệ xử lý nước thải để tái sử dụng trong nông nghiệp có thể kể đến công nghệ xử lý nước thải bằng hồ sinh học, bãi lọc trồng cây, công nghệ xử lý yếm khí UASB, ABR với dòng hướng ngược để xử lý nước thải chăn nuôi, nước thải làng nghề, nước thải đô thị...

Báo cáo cũng nêu rõ định hướng nghiên cứu khoa học công nghệ đến năm 2020 của Viện Nước, Tưới tiêu và Môi trường trong đó mục tiêu chính là xây dựng Viện trở thành một đơn vị nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ mạnh của ngành và ngang tầm các viện nghiên cứu trong khu vực, các lĩnh vực nghiên cứu của Viện giải quyết được những vấn đề của ngành, của đất nước...

Phát biểu tại Hội nghị, Thứ trưởng Hoàng Văn Thắng nhấn mạnh: Viện Nước, Tưới tiêu và Môi trường có chức năng nhiệm vụ, lĩnh vực phạm vi rộng, liên quan đến nhiều vấn đề mang tính thời sự hiện nay, Viện có tập thể đội ngũ cán bộ năng động, có các chuyên gia, có các thế hệ lãnh đạo là các nhà chuyên gia, nhà khoa học hàng đầu về lĩnh vực thủy nông. Qua báo cáo trên có thể thấy Viện đã có nhiều nghiên cứu, nhiều giải pháp ứng dụng thành công tuy nhiên chưa thực sự có sức lan truyền rộng, cách tiếp cận khoa công nghệ chưa thực sự đi vào cuộc sống, gắn với nhận thức của người dân, hỗ trợ người dân có công nghệ để người dân tự làm, cách tiếp cận không chỉ đơn thuần khoa học và công nghệ  cần kèm theo cả cơ chế chính sách và cần nhìn vào vấn đề đất nước cần, người dân cần, không cần nhìn vào tính mới, tính sáng tạo mà không có thực tiễn áp dụng.

Tại Hội nghị, các đại biểu là các nhà chuyên gia, nhà khoa học của Viện đã đưa ra rất nhiều ý kiến xác thực giúp cơ quan quản lý, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn có cách nhìn tổng thể về lĩnh vực tài nguyên nước và môi trường  từ đó đề ra các chính sách, hướng đi đúng đắn để giải quyết các vấn đề đặt ra cho đất nước về lĩnh vực này.

Thay mặt cho Ban Giám đốc Viện Khoa học Thủy lợi Việt Nam, Q. Giám đốc Viện, PGS.TS. Nguyễn Vũ Việt cho rằng Viện Nước, Tưới tiêu và Môi trường có nhiều lợi thế và phù hợp với nhiều vấn đề của Bộ đang quan tâm như tái cơ cấu ngành và xây dựng nông thôn mới, cần bám sát nhiệm vụ của Bộ, của ngành,  tái cơ cấu từ nhân sự, hướng nghiên cứu, gắn với các đơn vị nghiên cứu về thể chế chính sách và các đơn vị nghiên cứu tưới về mặt ruộng và đơn vị về hợp tác quốc tế.... Cần tận dụng những công nghệ đã có từ trước để phát triển những nghiên cứu tiếp theo, cần đi với tài chính vi mô, cần tiếp cận theo giai đoạn, ưu tiên tập trung vào các công nghệ mũi nhọn, tăng cường cơ sở vật chất...

Kết luận tại Hội nghị, Thứ trưởng Hoàng Văn Thắng đã đánh giá cao các ý kiến đóng góp của các đại biểu, các chuyên gia, các nhà khoa học tại Hội nghị. Thứ trưởng đề nghị Viện cần đổi mới tư duy và cách tiếp cận, cần tiếp cận vấn đề một cách hệ thống, đưa ra lộ trình cụ thể, có thể dự báo cho tương lai như nước cho vùng cao, tưới cho mặt ruộng.... Đề nghị Viện phân phối lại nguồn lực, xác định vấn đề quan trọng trước mắt và vấn đề giải quyết trong tương lai, chia theo từng giai đoạn ngắn và trung hạn như xây dựng khung pháp lý, thể chế, cơ chế chính sách và có cơ chế tài chính tích hợp để tạo động lực cho các cán bộ nghiên cứu khoa học, tìm mọi biện pháp thu hút các nhà khoa học, chuyên gia đầu đàn và chuyên gia khoa học trong và ngoài ngành; tiếp cận các công nghệ tiên tiến của thế giới thông qua đa chiều, phối hợp với cơ quan trong nước và Trung tâm Đào tạo và Hợp tác Quốc tế về các vấn đề liên quan như quản lý lũ, quản lý hạn tổng hợp, công nghệ không gian.... đưa một cơ quan nghiên cứu khoa học cơ bản thành cơ quan nghiên cứu khoa học chuyên sâu. Cần làm nổi bật vai trò của Viện và đưa các công nghệ của Viện áp dụng nhanh vào cuộc sống. Cuối cùng, Thứ trưởng khẳng định Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn sẵn sàng tạo mọi điều kiện, cơ chế, động lực cho Viện.

Ý kiến góp ý: