Lý do bài báo khoa học bị từ chối & hệ quả
28/02/2013LTS: Gần đây, vấn đề tụt hậu khoa học đã thu hút sự chú ý của nhiều diễn đàn báo chí. Nhiều ý kiến xoay quanh số ấn phẩm khoa học của Việt Nam trên các tập san khoa học quốc tế còn thấp, trong khi Việt Nam có nhiều giáo sư và tiến sĩ hơn các nước trong vùng Đông Nam Á. Một trong những lý do các nhà khoa học Việt Nam ít có công bố quốc tế là vì các công trình của họ bị các tập san khoa học từ chối.
Là người bình duyệt và biên tập cho một số tập san khoa học qua nhiều năm(*), tôi thu thập được một số kinh nghiệm và thông tin về số phận những bài báo khoa học bị từ chối. Trong bài này, tôi sẽ giải thích và phân tích những lý do bài báo khoa học bị từ chối, và hy vọng góp một phần vào việc nâng cao sự hiện diện của khoa học Việt Nam trên trường quốc tế trong tương lai.
Kỳ 1: Vì sao bị từ chối?
Ở nước ngoài, người ta không có “nghiệm thu” công trình khoa học như ở Việt Nam; thay vào đó, các cơ quan tài trợ đánh giá sự thành công của một công trình nghiên cứu khoa học qua những bài báo đã được công bố trên các tập san có uy tín trên thế giới. Tốt hơn nữa, nếu nghiên cứu có ứng dụng, thì sản phẩm thực tế hay bằng sáng chế là thước đo quan trọng để đánh giá công trình nghiên cứu.
Nhưng trong thực tế, phần lớn những bài báo khoa học bị từ chối công bố với tỷ lệ dao động trong khoảng 50 – 99%, tuỳ theo tập san và thời gian. Tập san có uy tín cao thường có tỷ lệ từ chối cao. Những tập san lâu đời và có ảnh hưởng lớn trong khoa học như Science, Nature, Cell, hay trong y khoa như New England Journal of Medicine, Lancet, JAMA, có tỷ lệ từ chối đến 90 – 99%.
Quyết định từ chối thường xuất phát từ ban biên tập và các chuyên gia bình duyệt. Nhưng rất nhiều trường hợp tác giả không biết tại sao bài báo của mình bị từ chối, vì ban biên tập không giải thích lý do cụ thể.
Quy trình xuất bản
Khác với tạp chí phổ thông (scientific magazine), tập san khoa học (scientific journal) là những diễn đàn khoa học có chức năng chính là chuyển tải và chia sẻ thông tin khoa học trong giới nghiên cứu khoa học, nên văn phong và cách trình bày rất đặc thù và có khi khó hiểu. Các tạp chí không có cơ chế bình duyệt (peer review), nhưng các tập san khoa học nghiêm túc thì có cơ chế bình duyệt mà theo đó bài báo trước khi được công bố phải qua vài giai đoạn kiểm tra và duyệt xét về ý tưởng, phương pháp, cách diễn giải.
Quy trình để xuất bản một bài báo khoa học cũng khá phức tạp. Đầu tiên là tác giả soạn bài báo khoa học và đệ trình đến một tập san. Ban biên tập khi nhận được nếu thấy chưa đạt yêu cầu sẽ từ chối công bố trong vòng một tuần; nếu thấy đạt yêu cầu và có tiềm năng, họ sẽ gửi cho hai hoặc ba chuyên gia bình duyệt. Chỉ một trong ba chuyên gia bình duyệt đề nghị từ chối thì khả năng bài báo sẽ bị từ chối lên rất cao. Có nhiều trường hợp bài báo phải trải qua ba lần bình duyệt, và tốn rất nhiều thời gian (trên 12 tháng) nhưng cuối cùng vẫn bị từ chối!
Nhìn qua quy trình trên, dễ dàng thấy bài báo khoa học bị từ chối ở ba giai đoạn: ban biên tập, bình duyệt, và tái bình duyệt. Một nghiên cứu trên tập san British Medical Journal (một trong những tập san y khoa hàng đầu thế giới) cho thấy trong giai đoạn một (tức ban biên tập), tỷ lệ từ chối là khoảng 50%, ở giai đoạn hai khoảng 45%, còn ở giai đoạn ba là tái bình duyệt, xác suất bị từ chối khoảng 5%.
Lý do từ chối: ban biên tập
Lý do từ chối bài báo trong giai đoạn 1 có thể liệt kê vào ba nhóm chính:
Không thích hợp cho tập san là lý do ban biên tập từ chối rất nhanh. Tập san khoa học có đẳng cấp riêng trong chuyên ngành, và đẳng cấp này có thể phân biệt qua hệ số ảnh hưởng (impact factor, viết tắt là IF). Tập san có IF cao cũng có nghĩa là có ảnh hưởng lớn, và những tập san này chỉ công bố những công trình quan trọng. Nếu công trình nghiên cứu không thuộc vào loại “đột phá” thì không nên gửi cho các tập san như Science và Nature, mà nên xem xét đến các tập san chuyên ngành.
Thiếu cái mới: nói chung, ban biên tập ưa chuộng công bố những nghiên cứu có cái mới về phương pháp, cách tiếp cận, kết quả, cách diễn giải... Những công trình nghiên cứu “me too” (tức lặp lại hay bắt chước nghiên cứu trước đây) khó có cơ hội công bố trên các tập san có tiếng. Những nghiên cứu mà câu trả lời hay kết quả chẳng ảnh hưởng gì đến chuyên ngành, chẳng gây tác động gì đến chính sách công hay thực hành lâm sàng cũng khó có cơ hội được công bố.
Vấn đề ngôn ngữ: có khá nhiều bài báo có nội dung tốt, nhưng vì cách trình bày luộm thuộm, thiếu tính logic, vẫn bị từ chối. Một số bài báo bị từ chối vì tiếng Anh quá kém, thậm chí sai chính tả.
Lý do từ chối: chuyên gia bình duyệt
Các chuyên gia bình duyệt là những người bán nặc danh, chỉ có ban biên tập mới biết họ là ai. Chuyên gia bình duyệt biết tác giả, nhưng tác giả không biết các chuyên gia này là ai. Do đó, tác giả phải hết sức cẩn thận và khách quan trong cách trình bày bài báo, hoặc trả lời bình duyệt sao cho lịch sự, không tấn công cá nhân, để không gây ấn tượng xấu với các đồng nghiệp bình duyệt.
Các chuyên gia bình duyệt sẽ có 1 – 3 tháng để báo cáo cho ban biên tập, và trong báo cáo có phần đề nghị chấp nhận hay bác bỏ bài báo. Trong báo cáo đó, các chuyên gia bình duyệt phải nói lý do tại sao họ đi đến quyết định chấp nhận hay từ chối bài báo. Xem qua những lý do mà các chuyên gia bình duyệt từ chối bài báo có thể tóm lược trong bốn nhóm chính:
Tầm quan trọng và thiếu cái mới trong công trình nghiên cứu là lý do hàng đầu (80% bài báo bị từ chối với lý do này). Thiếu tính ứng dụng cũng là một lý do để từ chối.
Phương pháp: một nghiên cứu về lý do từ chối trên 25 nhà khoa học từng đoạt giải Nobel Y sinh học, 67 tổng biên tập và 50 chuyên gia bình duyệt của các tập san y sinh học cho ra kết quả: 71% bài báo bị từ chối là do thiết kế nghiên cứu có vấn đề. Những khiếm khuyết về cách tiếp cận, thiết kế nghiên cứu, phương pháp đo lường, quy trình thực hiện, phân tích dữ liệu... thường được nhắc đến như là những lý do từ chối.
Về trình bày dữ liệu, có ba nguyên nhân chính dẫn đến bài báo bị từ chối đăng: trình bày dữ liệu không đầy đủ (32%), có mâu thẫn giữa các dữ liệu trình bày (25%) và không cung cấp đầy đủ chi tiết về phương pháp nghiên cứu (25%). Về cách viết, các khoa học không ưa cách viết sử dụng từ ngữ hoa mỹ và sáo rỗng, dùng những từ “đao to búa lớn”. Khoảng 43% bài báo với những từ ngữ như văn chương chính trị bị từ chối công bố. Ngoài ra, diễn đạt ý tưởng không khúc chiết (21%) và câu văn thừa (11%) cũng là những nguyên nhân bị từ chối.
Địa phương chủ nghĩa?
Phần lớn các tập san khoa học mang tính quốc tế, hiểu theo nghĩa ban biên tập nhận bài từ tất cả các nhà khoa học trên thế giới. Câu hỏi đặt ra là có sự khác biệt nào về tỷ lệ từ chối giữa các nước hay không.
Theo thống kê của các tập san y khoa lớn như New England Journal of Medicine, JAMA, không có khác biệt lớn về tỷ lệ từ chối giữa các nước Mỹ (hay nói tiếng Anh) và ngoài Mỹ. Tuy nhiên, đối với các tập san chuyên ngành thì có sự khác biệt lớn, chẳng hạn như tập san Circulation Research (chuyên về tim mạch, IF~10), mỗi năm nhận được khoảng 2.000 bài báo từ khắp các nước, nhưng chủ yếu từ Mỹ (44%), Âu châu (31%), Nhật (6%), và Á châu (9%, không kể Nhật). Tỷ lệ từ chối chung là 85%, không khác mấy so với tỷ lệ từ chối các bài báo từ Hàn Quốc (88%), Đài Loan (91%). Riêng Trung Quốc, có đến 99% bài báo gửi cho tập san Circulation Research bị từ chối vì chất lượng quá kém và tiếng Anh chưa đạt.
Một phân tích thú vị khác của tập san American Journal of Roentgenology (IF ~4) cho thấy trong thời gian 2003 – 2005, tập san này nhận được 5.242 bài báo khoa học từ khắp nơi trên thế giới, chủ yếu từ Mỹ (43%), Nhật (11%), Hàn Quốc (9%), Đức (5%), và Canada (4%). Tỷ lệ bài báo được chấp nhận cho đăng dao động lớn giữa các nước: trong số 2.252 bài báo từ Mỹ, 72% được chấp nhận cho công bố, và trong tổng số 2.990 bài báo ngoài Mỹ, tỷ lệ được chấp nhận là 60%. Nước có tỷ lệ chấp nhận thấp nhất là Ấn Độ, với 27%. Phân tích chi tiết theo ngôn ngữ mẹ đẻ, thì trong số 2.684 bài báo từ các nước nói tiếng Anh, tỷ lệ chấp nhận cho công bố là 71%. Trong số 2.558 bài báo xuất phát từ những nước không nói tiếng Anh, tỷ lệ chấp nhận chỉ 60%.
Kỳ 2: Cơ hội từ thất bại
Những bài học
Biết được lý do bài báo bị từ chối cũng là một cách học. Sau đây là vài bài học có thể rút ra:
Khuyết điểm phổ biến nhất khiến một bài báo khoa học bị từ chối là phương pháp nghiên cứu. Ảnh: TL |
Thứ nhất là khi có ý tưởng làm nghiên cứu, cần phải chú trọng đến cái mới. Cái mới ở đây không chỉ về ý tưởng, mà có thể là mới về phương pháp nghiên cứu, mới về kết quả và cách trình bày, cách lý giải kết quả nghiên cứu. Rất nhiều nghiên cứu y khoa từ Việt Nam thiếu cái mới, vì chỉ lặp lại những gì người khác đã làm. Một số người chỉ muốn theo đuổi những đề tài dễ, vì hoặc là thiếu kinh phí, hoặc không dám mạo hiểm theo đuổi những đề tài gai góc. Lại có những người chỉ làm theo lối mòn, vì họ sợ làm cái gì mới sẽ bị thầy cô bác bỏ. Trong nhiều trường hợp, chính thầy cô cũng chỉ làm theo lối mòn, vì sợ hội đồng duyệt tài bác bỏ. Bản thân các thành viên trong hội đồng duyệt đề tài cũng quen với những ý tưởng nhỏ, chắp vá, hay thậm chí chưa có kinh nghiệm làm nghiên cứu khoa học, nên họ phải… bảo thủ. Trong cái vòng tròn luẩn quẩn như thế, rất khó để các nhà khoa học Việt Nam có công trình công bố trên các tập san quốc tế.
Thứ hai là cần chú trọng đến phương pháp nghiên cứu. Trong nghiên cứu thực nghiệm, thiết kế và phương pháp đóng vai trò cực kỳ quan trọng. Thiết kế nghiên cứu không thích hợp, thì dữ liệu có thể không có giá trị khoa học cao, và không có cơ may công bố trên các tập san có uy tín. Chẳng hạn như một công trình nghiên cứu y khoa thiết kế theo mô hình có yếu tố thời gian và có nhóm chứng lúc nào cũng có giá trị khoa học hơn là một công trình không có nhóm chứng. Trong nghiên cứu y học, phương pháp sai thì kết quả cũng sai hay không có giá trị cao.
Thứ ba là cách trình bày. Bài báo khoa học là một văn bản khó hiểu, bởi văn phong thường được viết rất ngắn và cô đọng. Nhưng nếu tác giả chọn cách viết dài dòng như viết tiểu thuyết thì đó là một cách chuốc lấy thất bại. Điều này có ý nghĩa với chúng ta, vì người Việt hay chịu ảnh hưởng của thơ văn trong cách viết bài báo khoa học. Nhiều tập san khoa học trong nước có cách trình bày… chẳng giống ai, chẳng theo một thông lệ khoa học nào. Điều này làm cho người đọc cảm thấy những bài báo nghiên cứu trong nước rất hời hợt và thiếu tính khoa học. Còn các tập san khoa học quốc tế có quy định rất chặt chẽ về cách trình bày dữ liệu, cách viết, thậm chí cách trình bày tài liệu tham khảo. Nếu bài báo không tuân thủ theo các quy định của tập san thì chắc chắn sẽ bị từ chối.
Thứ tư là cần thạo tiếng Anh. Phần lớn (90%) các tập san quốc tế, dù là tập san ở các nước Bắc Âu hay châu Á – Thái Bình Dương đều sử dụng tiếng Anh. Có thể nói không ngoa rằng tiếng Anh đã trở thành ngôn ngữ chung của cộng đồng khoa học. Đối với các nhà khoa học Việt Nam, tiếng Anh là một vấn đề lớn, vì nhiều nhà khoa học Việt Nam dù có thể đọc, nghe, viết bằng tiếng Anh, nhưng phần lớn chưa ở trình độ có thể viết một bài báo khoa học hoàn chỉnh. Ngay cả những nghiên cứu sinh đã theo học các đại học nói tiếng Anh ở nước ngoài cũng chưa đủ khả năng tự soạn một bài báo khoa học. Do đó, các đại học, viện nghiên cứu nên tổ chức nhiều khoá học về cách viết bài báo khoa học bằng tiếng Anh. Tuy nhiên, tiếng Anh không phải là lý do chính để từ chối một công trình nghiên cứu có chất lượng cao. Ngược lại, tiếng Anh “văn hay chữ tốt” cũng không thể bù đắp được những khiếm khuyết về cái mới và phần thiết kế cũng như phương pháp nghiên cứu.
Bị từ chối là một cơ hội!
Theo một phân tích mới đây, những bài báo bị từ chối sau khi được chỉnh sửa lại thường được công bố trên những tập san có ảnh hưởng cao. Do đó, không nên buồn khi thấy công trình của mình bị từ chối, mà nên xem đó là một cơ hội để làm tốt và hay hơn.
Các kết quả phân tích trên cho thấy khuyết điểm phổ biến nhất và cũng là nguyên nhân thông thường dẫn đến quyết định từ chối một bài báo khoa học nằm ở phần phương pháp. Điều này không khó hiểu, bởi nếu phương pháp sai thì kết quả sẽ sai, các bàn luận và kết luận cũng có thể sai. Mà sai sót về phương pháp thì không sửa được (vì nghiên cứu đã làm rồi). Không có tập san khoa học nào muốn công bố một bài báo khoa học nhiều sai sót, nên quyết định từ chối những bài báo do khiếm khuyết về phương pháp là điều hoàn toàn có thể đoán được.
Bộ Khoa học và công nghệ vừa ra chính sách mới, theo đó công bố quốc tế được lấy làm một thước đo năng lực nghiên cứu khoa học. Chiến lược khoa học 2011 – 2020 viết rằng “tăng số lượng công bố quốc tế từ các đề tài sử dụng ngân sách nhà nước trung bình 15 – 20%/năm”, “đến năm 2020 hình thành 60 tổ chức nghiên cứu cơ bản và ứng dụng đạt trình độ khu vực và thế giới”. Đây là một thách thức đáng kể cho giới khoa học Việt Nam, bởi càng ngày việc công bố khoa học càng khó khăn vì sự cạnh tranh toàn cầu giữa các nhà khoa học để có tiếng nói.
Trong khi chúng ta có kế hoạch gia tăng số ấn phẩm khoa học, thì các nước trong vùng đã bỏ xa chúng ta. Năm 2012, các nhà khoa học Việt Nam công bố được 1.630 bài báo khoa học trên các tập san quốc tế – chỉ bằng 30% của Thái Lan, 22% của Malaysia, 17% của Singapore. Những con số này cho thấy năng suất khoa học Việt Nam còn rất khiêm tốn, nhất là trong điều kiện 9.500 giáo sư và phó giáo sư cùng 24.000 tiến sĩ!
Còn một thực tế đáng báo động khác: vấn đề lệ thuộc. Phần lớn (70%) những công trình của Việt Nam là do hợp tác với nước ngoài. Có lĩnh vực như y khoa, tỷ lệ hợp tác với nước ngoài lên đến 80%. Hợp tác khoa học là điều cần thiết và cần khuyến khích, nhưng nếu 80% công trình nghiên cứu là do hợp tác thì có thể xem đó là một chỉ số về nội lực yếu kém, hay nói thẳng hơn là lệ thuộc. Điều này cho thấy ngay từ bây giờ Việt Nam cần phải xây dựng nội lực khoa học tốt hơn để cạnh tranh với các nước trong vùng và trên thế giới.
Để xây dựng nội lực, cần có những chính sách lâu dài hơn và có hệ thống hơn liên quan đến con người. Rất cần lập những quỹ dành cho các nhà khoa học trẻ (mới xong tiến sĩ) để gửi họ ra nước ngoài tiếp tục nghiên cứu trong giai đoạn hậu tiến sĩ. Đối với những nhà khoa học có triển vọng (không khó nhận ra những người này), cần có những tài trợ đặc biệt để họ đủ lương bổng mà không phải lo đến chuyện “cơm áo gạo tiền” hay phải chạy sô “xoá đói giảm nghèo”.
Nói tóm lại, chúng ta cần phải lập ra quỹ dành cho những nhà khoa học tinh hoa và cho phép họ độc lập trong nghiên cứu và sử dụng ngân sách khoa học. Khoa học bắt đầu từ con người có tài, và không có lý do gì mà xã hội không nuôi dưỡng những nhân tài.
Nguyễn Văn Tuấn
(*) Tác giả là nhà khoa học y khoa chuyên về dịch tễ học và di truyền loãng xương, hiện là giáo sư thỉnh giảng cao cấp tại đại học New South Wales (Úc), từng làm giáo sư thỉnh giảng tại Mỹ, Anh, Hong Kong. Ông đã có gần 150 công trình nghiên cứu khoa học.
Theo SGTT
Ý kiến góp ý: