Mô hình sinh thái phục hồi rừng ngập mặn và phát triển sinh kế bền vững cho cộng đồng ven biển trong phong trào xây dựng nông thôn mới
19/09/2025Tác phẩm dự thi viết về gương điển hình tiên tiến trong phong trào thi đua “Cả nước chung sức xây dựng nông thôn mới” và phong trào thi đua “Vì người nghèo - Không để ai bị bỏ lại phía sau” giai đoạn 2021-2025.
Tên bài dự thi:
MÔ HÌNH SINH THÁI PHỤC HỒI RỪNG NGẬP MẶN VÀ PHÁT TRIỂN SINH KẾ BỀN VỮNG CHO CỘNG ĐỒNG VEN BIỂN TRONG PHONG TRÀO XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
Nhóm tác giả: PGS.TS. Nguyễn Quốc Huy, TS. Nguyễn Minh Đức, ThS. Phạm Văn Động, TS. Đỗ Quý Mạnh.
Thể loại: Bài ghi chép
Thông tin nhóm tác giả: Viện Sinh thái và Bảo vệ công trình, địa chỉ: số 267 Chùa Bộc, Hà Nội. Tác giả liên hệ: TS. Đỗ Quý Mạnh. Số điện thoại: 098.999.3648. Email: doquymanh@gmail.com
Việt Nam là quốc gia ven biển với chiều dài đường bờ biển hơn 3.260 km, trải rộng từ Quảng Ninh đến An Giang, nơi hội tụ những hệ sinh thái đặc thù và phong phú bậc nhất khu vực Châu Á: Trong đó, rừng ngập mặn giữ vai trò không thể thay thế. Không chỉ là “lá phổi xanh” điều hòa khí hậu, hấp thụ các-bon, bảo vệ đê điều, chống xói lở - rừng ngập mặn còn là “bức tường xanh” chở che cho hàng triệu cư dân trước sóng gió biển khơi, đồng thời tạo sinh kế trực tiếp từ đánh bắt, nuôi trồng thủy sản và gián tiếp thông qua du lịch sinh thái, dịch vụ môi trường rừng ngập mặn.
Thế nhưng, trong quá khứ, do chạy theo lợi ích kinh tế ngắn hạn, diện tích rừng ngập mặn đã bị suy giảm nghiêm trọng: từ hơn 400.000 ha năm 1943, đến nay chỉ còn khoảng 151.481 ha. Nguyên nhân chủ yếu đến từ hoạt động của con người - chuyển đổi đất rừng sang nuôi tôm, khai thác quá mức thủy sản, khai thác cát bừa bãi cộng với tác động ngày càng khắc nghiệt của biến đổi khí hậu, nước biển dâng, bão tố và triều cường. Một khi hệ sinh thái rừng ngập mặn bị tàn phá, quá trình phục hồi tự nhiên là vô cùng khó khăn, thậm chí kéo dài hàng trăm năm. Đây là bài học “xương máu” cho công tác quản lý tài nguyên thiên nhiên ở nước ta.
Nhận thức rõ điều đó, từ năm 2010 đến nay, các nhà khoa học của Viện Sinh thái và Bảo vệ công trình (WIP) đã chủ động triển khai hàng loạt nghiên cứu và mô hình thực tiễn nhằm phục hồi, ổn định và phát triển bền vững rừng ngập mặn. Các công trình này vừa hướng tới lợi ích sinh thái bảo tồn đa dạng sinh học, chắn sóng, giảm sạt lở vừa gắn chặt với lợi ích kinh tế và sinh kế cho cộng đồng ven biển. Nói cách khác, đây là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa khoa học - thiên nhiên - con người, góp phần đặt nền tảng cho xây dựng nông thôn mới kiểu mẫu ở những vùng ven biển khó khăn nhất.
Một số kết quả nổi bật có thể kể đến
Mô hình tường mềm giảm sóng, gây bồi tạo bãi tại đồng bằng sông Hồng, vùng ven biển miền Trung và đồng bằng sông Cửu Long thuộc các đề tài hệ sinh thái vùng triều, gây bồi tạo bãi, phòng, chống sạt lở bờ sông, kênh rạch Tây Nam sông Hậu,... đã chứng minh hiệu quả: giảm vận tốc dòng chảy tới 10 cm/s, tăng tỷ lệ thành rừng từ 70-85%, ổn định bãi triều và mở rộng, gia tăng hiệu quả trồng rừng ngập mặn.
Các mô hình bảo tồn quy mô làng/xã tại Cà Mau như nuôi cá Bống tượng kết hợp bảo tồn rừng ngập mặn đã tạo sinh kế bền vững: giá bán cá từ 150.000 đồng/kg (2020) nay đạt khoảng 300.000 đồng/kg; năng suất bình quân 350 kg/ao 1.000 m², mang lại thu nhập ổn định cho hàng chục hộ dân.
Khoanh nuôi xúc tiến tái sinh nhân tạo và trồng phục hồi rừng ngập mặn tại Khu Dự trữ sinh quyển châu thổ sông Hồng trên các dạng lập địa (bãi bồi, rừng ngập mặn bị suy thoái và vùng đầm nuôi thuỷ sản) với tỷ lệ cây sống trên 85% sau 3 năm, vừa tăng nguồn lợi thủy sản tự nhiên, vừa tạo cảnh quan sinh thái phục vụ du lịch cộng đồng, du lịch sinh thái và trải nghiệm rừng ngập mặn.
Điểm đặc biệt của mô hình tại hệ sinh thái vùng triều đồng bằng sông Cửu Long là sự kết hợp liên ngành: thủy lợi - lâm nghiệp - thủy sản. Quy trình kỹ thuật được chuẩn hóa, từ chọn loài cây ngập mặn phù hợp (Mắm biển, Đước đôi, Đưng,…), đến điều tiết nguồn nước bằng hệ thống cống kiên cố, chọn giống thủy sản bản địa (cua biển, tôm sú), nuôi theo chuỗi thức ăn tự nhiên, kiểm soát dịch hại bằng biện pháp sinh học. Nhờ vậy, các hệ sinh thái được phục hồi đúng nghĩa: giữ nguyên cấu trúc, đảm bảo cân bằng, duy trì ổn định lâu dài.
Lợi ích kinh tế cũng được chứng minh rõ rệt: giá trị thu nhập từ 50 triệu đồng/ha/năm đã tăng lên trên 100 triệu đồng/ha/năm nhờ mô hình kết hợp rừng - nước - thủy sản. Điều đó đồng nghĩa, rừng ngập mặn không còn chỉ là “lá chắn” sinh thái, mà còn trở thành “nguồn vốn” kinh tế xanh của người dân.
Kinh nghiệm quốc tế và so sánh với Việt Nam
Không chỉ Việt Nam, nhiều quốc gia ven biển trên thế giới cũng đối diện với bài toán tương tự: phát triển kinh tế nhanh chóng đã làm suy giảm diện tích rừng ngập mặn, gây mất cân bằng sinh thái và đe dọa sinh kế của hàng triệu người dân.
Indonesia - quốc gia có diện tích rừng ngập mặn lớn nhất thế giới, từng mất 40% diện tích chỉ trong vài thập kỷ vì nuôi tôm công nghiệp. Chính phủ nước này hiện đang triển khai chương trình phục hồi 600.000 ha rừng ngập mặn, coi đây là giải pháp sống còn để chống xói lở và giảm phát thải khí nhà kính.
Bangladesh với rừng Sundarbans, “lá chắn” của hàng chục triệu cư dân, đang phải đối mặt trực tiếp với nước biển dâng và bão nhiệt đới. Chính phủ cùng các tổ chức quốc tế đã đẩy mạnh các dự án bảo tồn, phục hồi rừng, gắn với sinh kế như khai thác mật ong, nuôi trồng thủy sản bền vững.
Philippines mất hơn một nửa rừng ngập mặn trong thế kỷ XX, nhưng sau siêu bão Haiyan năm 2013, nước này coi việc trồng và bảo vệ rừng ngập mặn là chiến lược an ninh quốc gia để bảo vệ dân cư ven biển.
Mexico và Trung Mỹ chuyển đổi đất sang nuôi tôm khiến rừng bị tàn phá, nay các nước áp dụng cơ chế “Các-bon xanh” (Blue Carbon), trả tiền dịch vụ hệ sinh thái cho cộng đồng, vừa bảo vệ rừng vừa tạo thêm nguồn thu nhập.
Ở cấp độ toàn cầu, Liên Hợp Quốc đã đưa phục hồi rừng ngập mặn vào ưu tiên trong Thập kỷ Phục hồi Hệ sinh thái 2021-2030, nhấn mạnh vai trò đặc biệt của rừng ngập mặn trong việc lưu giữ các-bon gấp nhiều lần rừng trên cạn. Nhiều sáng kiến liên quốc gia như Mangrove Alliance for Climate (MAC) cũng đang kêu gọi các quốc gia mở rộng diện tích rừng ngập mặn để ứng phó biến đổi khí hậu.
So với các quốc gia trên, Việt Nam có điểm tương đồng: đều từng trả giá vì phát triển nóng và suy giảm rừng ngập mặn; song cũng đang dần chuyển hướng sang cách tiếp cận sinh thái gắn với sinh kế cộng đồng. Các mô hình của Việt Nam như kết hợp trồng rừng với nuôi trồng thủy sản, du lịch sinh thái, hay hệ thống công trình mềm giảm sóng cho thấy chúng ta đang đi cùng nhịp với xu thế toàn cầu. Đây là bằng chứng khẳng định: con đường bảo vệ “bức tường xanh” và đồng thời nuôi dưỡng “bức tường sinh kế” cho cộng đồng ven biển là lựa chọn không thể khác nếu muốn phát triển bền vững.
Trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng khốc liệt, nước biển dâng đe dọa trực tiếp đồng bằng sông Cửu Long và nhiều dải ven biển miền Trung, những mô hình này mang ý nghĩa cấp thiết và lâu dài. Chúng không chỉ bảo tồn thiên nhiên, mà còn giải quyết căn cơ mối quan hệ then chốt: bảo vệ môi trường gắn liền với phát triển sinh kế cộng đồng. Đây chính là cách tiếp cận “sinh thái hóa nông thôn mới” vừa gìn giữ tài nguyên, vừa nâng cao thu nhập, vừa bảo đảm an sinh xã hội.
Những kết quả bước đầu cho thấy hướng đi đúng đắn, song cũng đặt ra không ít thách thức: làm thế nào để nhân rộng mô hình trong điều kiện lập địa khó khăn, vùng ngập triều sâu, khu vực xói lở mạnh; làm thế nào để huy động nguồn lực dài hạn và sự đồng hành của cộng đồng, chính quyền địa phương. Điều này đòi hỏi sự kiên trì, sự chung tay của cả hệ thống chính trị, từ hoạch định chính sách đến thực thi ở cơ sở, cũng như sự đồng hành của doanh nghiệp và người dân.
Có thể khẳng định: phục hồi và phát triển rừng ngập mặn bằng mô hình sinh thái gắn với sinh kế cộng đồng không chỉ là giải pháp khoa học - công nghệ, mà còn là con đường nhân văn, bền vững cho tương lai vùng ven biển Việt Nam. Đây là cách chúng ta vừa bảo vệ được “bức tường xanh” thiên nhiên, vừa tạo dựng “bức tường sinh kế” cho người dân, góp phần thiết thực vào mục tiêu xây dựng nông thôn mới gắn với phát triển bền vững đất nước.
Một số hình ảnh kết quả nghiên cứu nổi bật về công trình sinh thái gắn với sinh kế cộng đồng của
Viện Sinh thái và Bảo vệ công trình
Tường mềm giảm sóng gây bồi, tạo bãi bảo vệ rừng ngập mặn tại hệ sinh thái vùng triều tỉnh An Giang
Trồng rừng ngập mặn vùng bãi bồi tỉnh Cà Mau
Phục hồi rừng ngập mặn trong đầm nuôi trồng thuỷ sản tại tỉnh An Giang
Mô hình sinh thái rừng - nước - thuỷ sản tại hệ sinh thái vùng triều đồng bằng sông Cửu Long
(Nguồn: Tư liệu ảnh của Viện Sinh thái và Bảo vệ công trình)
Ý kiến góp ý: