Nghiên cứu tác động của quá trình nuôi tôm đến nhiễm mặn đất huyện Giá Rai - Bạc Liêu
08/10/2012Quá trình chuyển đổi đất trồng lúa sang nuôi tôm một cách ồ ạt, không theo đúng quy hoạch tại huyên Giá Rai tỉnh Bạc Liêu trong thời gian qua đã nổi lên các vấn đề về suy thoái môi trường đất, đặc biệt là quá trình mặn hóa đất. Điều này đã và đang ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất tôm nuôi cũng như vấn đề an ninh lương thực. Diện tích đất mặn liên tục tăng trên địa bàn huyện từ năm 2000 đến 2010, đặc biệt trong giai đoạn 2000-2004 diện tích đất mặn đã tăng gần 20 lần.
Bài này đánh giá tác động của quá trình nuôi tôm đến nhiễm mặn đất ở huyện Giá Rai - Bạc Liêu, kết quả khảo sát cho thấy mức độ nhiễm mặn cao nhất ở mô hình nuôi tôm thâm canh và bán thâm canh, thấp nhất ở mô hình canh tác tôm - lúa. Điều kiện thời tiết, hệ thống công trình thuỷ lợi phục vụ nuôi tôm chưa đáp ứng yêu cầu của vùng nuôi, thiếu chủ động trong việc cấp nước ngọt và kỹ thuật cải tạo ao không đúng quy cách, chỉ tập trung chủ yếu sử dụng các biện pháp cơ học, chưa biết tận dụng tối đa nguồn nước mưa để rửa mặn là các nguyên nhân và tạo thành phức hệ gây suy thoái môi trường đất mà trước hết quá trình mặn hoá tại vùng nuôi tôm trên địa bàn huyện Giá Rai.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Giá Rai là một huyện ven biển thuộc tỉnh Bạc Liêu, với các đặc trưng điển hình của vùng Bán đảo Cà Mau nên kinh tế chủ yếu là nuôi trồng thủy sản, đặc biệt là nuôi tôm nước mặn, lợ. Nhận thức được hiệu quả kinh tế từ quá trình nuôi trồng thuỷ sản mang lại, bắt đầu những năm 2000 huyện đã thực hiện chuyển đổi cơ cấu sử dụng đất từ trồng lúa sang nuôi tôm, đặc biệt trong giai đoạn 2000 - 2004 đã tăng 19,85 lần. Quá trình này bước đầu đã mang lại hiệu quả và cải thiện đời sống của người dân trong vùng. Tuy nhiên sau một thời gian chuyển đổi, do quy hoạch chưa đồng bộ và quá trình chuyển đổi diễn ra một cách tự phát với phương thức nuôi chủ yếu vẫn là quảng canh, nên đã xuất hiện các dấu hiệu về suy thoái môi trường đất. Trong đó vấn đề nổi cộm chính là sự mặn hoá của đất trên vùng nuôi. Sau vài vụ bội thu giai đoạn 2004 – 2007, tôm bị dịch bệnh tràn lan đã khiến người dân nhiều vùng trở nên trắng tay. Khi đó, dù người dân có muốn quay trở lại với cây lúa thì năng suất cũng rất thấp do đất bị mặn hóa. Vấn đề đặt ra là cần xác định được mức độ nhiễm mặn của đất do việc chuyển đổi cơ cấu sản xuất từ trồng lúa sang nuôi tôm. Khoanh vùng diện tích đất bị mặn để từ đó đề ra những hướng giải quyết thích hợp nhằm cải tạo đất mặn. Nâng cao nhận thức của người dân về tác hại của đất bị mặn hóa, ảnh hưởng của đất mặn đến năng suất nuôi tôm và trồng lúa, áp dụng các biện pháp cải tạo đất mặn để tăng năng suất. Góp phần giảm thiểu những tác động xấu của việc nuôi tôm đến môi trường đất để nghề nuôi phát triển theo hướng bền vững. Ngoài ra sẽ làm rõ được quá trình đất bị nhiễm mặn do nuôi thủy sản, hậu quả của quá trình đó và những giải pháp cơ bản rửa mặn để có thể sản xuất nông nghiệp và thủy sản kết hợp nông nghiệp (mô hình tôm - lúa) trên vùng đất này có hiệu quả. Bài này bước đầu nghiên cứu tác động ảnh hưởng của hoạt động nuôi tôm đến quá trình nhiễm mặn đất ở huyện Giá Rai - Bạc Liêu nhằm thấy được những tác động xấu tới môi trường từ việc nuôi tôm không đúng kỹ thuật, để từ đó có thể tìm ra các giải pháp cải tạo đất mặn nhằm khai thác một cách hiệu quả nguồn tài nguyên đất vùng ven biển huyện Giá Rai nói riêng và tỉnh Bạc Liêu nói chung.
II. ĐỊA ĐIỂM VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Địa điểm nghiên cứu
Nghiên cứu này là một phần kết quả của đề tài khoa học cấp Bộ [2],[7], được thực hiện thí điểm trên các vùng đất nhiễm mặn tại 4 xã Long Điền, Tân Thạnh, Tân Phong và Phong Thạnh thuộc huyện Giá Rai với các mô hình nuôi trồng thủy sản (nuôi tôm) quảng canh, bán thâm canh và thâm canh.
2. Phương pháp nghiên cứu
a. Phương pháp thu thập tổng hợp tài liệu
Những số liệu và thông tin thứ cấp mang tính tổng quan được thu thập từ báo cáo hàng năm của các cơ quan ban ngành trong lĩnh vực tài nguyên và môi trường, nông nghiệp và thủy sản của tỉnh, chi cục thống kê, phòng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Giá Rai, số liệu thực tế tại các xã trên địa bàn nghiên cứu bao gồm Long Điền, Tân Thạnh, Tân Phong và Phong Thạnh.
b. Phương pháp chuyên gia và điều tra cộng đồng
Phỏng vấn các kỹ sư nông nghiệp và thủy sản, các cán bộ quản lý phòng Tài nguyên Môi trường, phòng Nông nghiệp và PTNT về tình hình nuôi thủy sản, mức độ và diện tích nhiễm mặn đất do hoạt động nuôi tôm, các biện pháp cải tạo và phục hồi vùng đất bị mặn hóa. Bên cạnh việc thu thập tài liệu từ các sở ban ngành, công tác tham vấn trực tiếp các nông hộ cũng được thực hiện trên các mô hình nuôi tôm với số lượng 40 mẫu phiếu soạn sẵn nhằm xác định các yếu tố từ chủ quan như kinh nghiệm nuôi trồng của các nông hộ, kỹ thuật nuôi, chế độ lấy nước… có tác động đến quá trình tích tụ mặn trong đất.
c. Phương pháp khảo sát thực địa và phân tích trong phòng thí nghiệm
Thiết lập mạng lưới lấy mẫu: Để khảo sát đặc tính môi trường đất nhằm xác định diễn biến độ mặn của đất vùng nghiên cứu theo thời gian trong điều kiện nuôi của nông hộ, một mạng lưới các điểm lấy mẫu đã được thiết lập với 15 điểm mẫu phân bố ở 4 xã: Long Điền, Tân Thạnh, Tân Phong, Phong Thạnh thuộc huyện Giá Rai.
Phương pháp lấy mẫu: Các điểm thu mẫu được lấy dựa trên các mô hình nuôi. Tại mỗi điểm, đất sẽ được lấy tại 5 vị trí theo đường chéo góc và trộn lẫn với nhau thành một mẫu. Đất được lấy ở 2 độ sâu: ở tầng mặt (0 - 20cm) và tầng 20 - 40cm.
Phương pháp phân tích: Tất các các mẫu đất đều được bảo quản phân tích nhằm xác định nồng độ muối tan của đất thông qua chỉ số độ dẫn điện dịch chiết bột nhão của đất được bão hòa (Electrical Conductance of the saturation paste extract- ECe). Cách xác định độ dẫn điện riêng dựa theo TCVN 6650: 2000 và ISO 11265:1994.
d. Phương pháp thống kê, so sánh và đánh giá
Từ các số liệu thu được tiến hành thống kê những vùng nhiễm mặn, mức độ mặn, so sánh tốc độ gia tăng diện tích mặn qua từng năm, mức độ tác động ảnh hưởng của các mô hình nuôi đến môi trường đất.
III. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
1. Thực trạng cơ cấu sử dụng đất huyện Giá Rai giai đoạn 2000- 2010
Hình 3.1: Diện tích trồng lúa và nuôi tôm qua các năm
Nhận thức được lợi nhuận từ quá trình nuôi trồng thuỷ sản mang lại, giai đoạn 2000 - 2010 đã chứng kiến sự chuyển dịch mạnh mẽ từ diện tích đất trồng lúa sang nuôi thuỷ sản trên địa bàn huyện Giá Rai - Bạc Liêu. Từ biểu đồ hình 3-1 cho thấy diện tích trồng lúa từ năm 2000 đến nay liên tục giảm từ hơn 26 nghìn ha xuống còn khoảng 7 nghìn ha, giảm 3,7 lần, diện tích giảm mạnh nhất diễn ra vào giai đoạn 2000 – 2004 khi các hộ dân ồ ạt chuyển sang nuôi tôm,[4]. Diện tích đất nuôi tôm liên tục tăng trong giai đoạn này có xu hướng tiếp tục tăng nhẹ trong những năm kế tiếp. Trong giai đoạn này diện tích nuôi tôm trên toàn vùng đã tăng khoảng 20 lần,[5]. Quá trình chuyển đổi mạnh mẽ nhất được thực hiện tại các xã ven biển do thuận lợi trong công tác dẫn nước vào nội đồng như các xã: Long Điền, Long Điền Đông, Long Điền Tây, An Phước. Diện tích đất nuôi tôm tăng mang theo lợi nhuận đáng kể cải thiện đời sống của người dân địa phương. Tuy nhiên trong những năm gần đây đã xuất hiện các dấu hiệu về ô nhiễm môi trường đất vùng nuôi như xuất hiện dịch bệnh, đất bị bỏ hoang hay các nông hộ không thể canh tác lúa do đất đã bị mặn hoá.
2. Hiện trạng môi trường đất khu vực nuôi tôm huyện Giá Rai
Thông qua công tác khảo sát thực địa và thu thập tài liệu trong phòng và ngoài hiện trường cho thấy môi trường đất tại các xã: Long Điền, Long Điền Đông, Long Điền Tây và An Phước bị nhiễm mặn ở mức trung bình không phù hợp để canh tác lúa. Chỉ có xã Tân Thạnh với độ mặn thấp nên đã tiến hành trồng lúa được vào mùa mưa và cho năng suất khá cao. Bên cạnh đó, trên địa bàn vùng nghiên cứu xuất hiện nhiều khu vực có các ao nuôi bị bỏ trống, lớp muối trắng tích tụ trên bề mặt, đất bị nứt nẻ do thiếu nguồn nước do có hiện tượng bồi lắng kênh rạch. Theo khảo sát tại các ao nuôi mô hình quảng canh (QC) và quảng canh cải tiến (QCCT) bị bỏ trống nhiều hơn so với ao nuôi theo mô hình thâm canh (TC) và bán thâm canh (BTC).
Cùng với sự gia tăng diện tích nuôi tôm trên địa bàn huyện Giá Rai, trong thời gian qua diện tích đất mặn cũng không ngừng tăng theo. Theo kết quả phân tích, thống kê cho thấy từ năm 2000 đến nay, diện tích mặn đã tăng 30,5 lần, diện tích đất mặn tăng mạnh nhất trong giai đoạn 2000 – 2004 và vẫn có xu hướng tăng nhẹ trong thời gian tới.
Hình 3.2: Đất bị nứt nẻ và đọng váng muối ở xã Long Điền | Hình 3.3: Đất bị mặn do mô hình QC ở xã Long Điền Tây |
Hình 3.4: Đất bị mặn do mô hình TC ở xã Long Điền | Hình 3.5: Đất bị mặn do mô hình BTC ở xã Long Điền |
Hình 3.6: Diện tích đất mặn giai đoạn 2000 – 2008 trên địa bàn huyện Giá Rai | Hình 3.7 : Kết quả phân tích mẫu đất ngày 25/3/2009 |
3. Đánh giá ảnh hưởng của hoạt động nuôi tôm tới độ mặn của đất
Độ mặn của đất do ảnh hưởng của hoạt động nuôi tôm xác định bởi nồng độ muối tan của đất được thể hiện bằng độ dẫn điện của dịch chiết bột nhão của đất được bão hòa (Electrical Conductance of the saturation paste extract- ECe),[3]. Cách xác định độ dẫn điện riêng dựa theo TCVN 6650: 2000 và ISO 11265:1994. Kết quả khảo sát diễn biến hàm lượng ECe trong dung dịch đất bão hoà của vùng nghiên cứu đối với các mô hình nuôi trồng thủy sản khác nhau được trình bày trong biểu đồ từ Hình 3-7 đến 3-10.
Hình 3.8: Kết quả phân tích mẫu đất ngày 25/4/2009
Qua số liệu cho thấy độ mặn của đất ở lần 2 giảm do tác động của thời tiết. Vì trong thời gian này đã xuất hiện những cơn mưa. Chính nguồn nước ngọt từ nước mưa đã phần nào làm giảm độ mặn của đất. Hoạt động nuôi tôm đã làm đất bị nhiễm mặn ở mức trung bình. Trong đó nuôi theo mô hình BTC và TC gây mặn cao hơn.
Hình 3.9: Mức độ ảnh hưởng của các mô hình nuôi đến quá trình nhiễm mặn đất
Độ mặn của đất ở xã Tân Thạnh nằm ở mức thấp, thuận lợi cho việc phát triển mô hình tôm - lúa. Sau khi kết thúc vụ tôm vào tháng 5, các hộ dân cần tận dụng nước mưa để ngâm ruộng nhằm rửa mặn cho đất và tiến hành sạ lúa. Khu vực thuộc các xã Long Điền, Tân Phong, Tân Thạnh đất bị nhiễm mặn cao. Với độ mặn này sẽ làm cho tôm nuôi dễ mắc bệnh và giảm năng suất.
Hình 3.10: So sánh độ mặn của đất qua 2 lần đo tại các mô hình nuôi
4. Nguyên nhân gây nhiễm mặn đất
a) Do điều kiện tự nhiên
Trong thời gian mùa khô từ tháng 1 đến tháng 4 có nhiều đợt gió mạnh với các hướng Đông - Bắc, Đông - Đông Bắc ở vùng bờ biển phía Đông, các hướng gió này gần như vuông góc với bờ và trùng với hướng cửa sông nên đã làm cho mực nước ven bờ các cửa sông dâng cao hơn, chính điều này khiến cho mặn xâm nhập sâu hơn vào nội đồng (Lê Sâm, 2006,[1]). Vùng nghiên cứu có hệ thống sông ngòi kênh rạch dày đặc và được nối thông với nhau, chế độ dòng chảy gần như bị chế độ thủy triều chi phối. Nguồn nước ngọt duy nhất có thể lấy được vào vùng nghiên cứu là từ sông Hậu. Tuy nhiên về mùa khô lưu lượng thượng nguồn đạt giá trị thấp, độ dốc lòng sông nhỏ, địa hình lại khá bằng phẳng nên đã tạo điều kiện cho nước mặn ảnh hưởng và xâm nhập sâu trên dòng chính và trong nội đồng. Mặt khác thời điểm mùa khô trùng với nhu cầu dùng nước tăng cao đã làm giảm lưu lượng dòng chính và dẫn đến nguy cơ xâm nhập mặn càng sâu vào trong nội đồng.
b) Do cơ sở hạ tầng kỹ thuật
Hệ thống thủy lợi ở Giá Rai được xây dựng chủ yếu phục vụ trồng lúa nên khi chuyển đổi cơ cấu sản xuất sang nuôi tôm thì nhiều nơi bộc lộ hạn chế. Với việc sử dụng luôn hệ thống kênh cấp thoát nước chung khi trồng lúa trong hoạt động nuôi tôm đã làm cho tình hình nhiễm mặn khó kiểm soát, dịch bệnh có khả năng lây lan, vì vậy năng suất tôm nuôi qua từng năm có xu hướng giảm. Trong vùng chưa có công trình điều tiết nước vào mùa khô, trong khi đó nhu cầu sử dụng nước cho việc nuôi tôm ngày càng tăng nhanh, đồng thời khả năng dự trữ nguồn nước về mùa mưa rất khó. Do vậy dẫn đến tình trạng thiếu nước ngọt để rửa mặn cho đất, đất đai ngày càng bị mặn hóa. Hệ thống kênh mương không hợp lý nên nhiều ao nuôi bị bỏ trống khi vào vụ vì không dẫn nước được vào ruộng. Khí hậu nắng nóng và gió mạnh trong mùa khô làm tăng cường độ bốc hơi nên tích tụ lớp muối trên bề mặt từ đó gây mặn cho đất.
c) Do hệ canh tác và kỹ thuật nuôi trồng
Trước năm 2000 đây là vùng trồng lúa, sau đó người dân dần chuyển sang nuôi tôm. Khi mới bắt đầu, do đất chưa bị nhiễm mặn nên con tôm sú cho hiệu quả cao giúp làm giàu nhanh chóng. Từ đó bà con ồ ạt phá bỏ các ruộng lúa, dẫn nước mặn vào nuôi tôm. Với việc chuyển đổi ồ ạt cơ cấu canh tác này đã làm cho bức tranh xâm nhập mặn vùng nghiên cứu càng thêm phức tạp hơn, trong quá trình chuyển đổi do phần lớn những khu vực được thực hiện một cách tự phát, thiếu quy hoạch, thiếu biện pháp bảo vệ, phòng ngừa và các biện pháp kỹ thuật cần thiết khác không chỉ gây nên suy thoái môi trường ngay tại khu vực chuyển đổi mà còn làm gia tăng mức độ lan truyền mặn vào sâu trong nội đồng. Nhiều khu vực sự lan truyền mặn diễn ra không kiểm soát được. Mô hình nuôi QC và QCCT nhiễm mặn thấp do hầu hết các hộ chỉ tiến hành nuôi 1 vụ/năm vào mùa nước mặn. Đến mùa mưa, lợi dụng nguồn nước ngọt từ nước mưa để ngâm ao giúp rửa mặn cho đất, các ao nuôi theo mô hình này bị bỏ trống nhiều và tích tụ mặn do các hộ nuôi thiếu vốn và chưa chú trọng vào công tác xây dựng hệ thống kênh mương cấp thoát nước, tình trạng thiếu nước và hiện tượng bốc hơi mạnh sẽ làm lớp muối trắng tích tụ trên bề mặt,[6]. Mô hình tôm - lúa bị thất bại ở 3 xã là do người dân xử lý ruộng nuôi chưa triệt để, làm cho đất ngày càng bị tích tụ mặn cao. Đối với mô hình này, theo nguyên tắc vào đầu mùa khô (khoảng tháng 11, 12), các hộ nuôi sẽ lấy nước vào ruộng nhờ thủy triều mang theo tôm vào ao, hàng tháng đều có thu hoạch, đến cuối mùa khô đầu mùa mưa (khoảng tháng 6) sẽ thu hoạch vụ cuối cùng, tiến hành cải tạo ao ruộng chuẩn bị trồng lúa. Tuy nhiên, hầu hết các nông hộ ở đây đã không nạo vét lớp phù sa sau một năm canh tác trữ lại. Do đó sau vài vụ lớp đất mặt sẽ bị tích tụ mặn cao và mặt ruộng bị nâng cao làm cho lượng nước vào bị giảm. Điều này dẫn đến tình trạng thiếu nước để nuôi tôm và cũng không đủ lượng nước để rửa mặn cho vụ lúa. Cứ như vậy đất ngày càng bị nhiễm mặn nặng.
d) Do quản lý khai thác
Kỹ thuật canh tác cũng là một trong những yếu tố tác động mạnh mẽ đến độ mặn tại các mô hình nuôi. Có một số hộ nuôi theo mô hình TC và BTC nuôi 2 vụ/năm. Vụ chính là vào mùa khô, vụ phụ vào mùa mưa. Đáng chú ý là giữa 2 vụ, các hộ này không tiến hành cải tạo ao mà cho thả ngay tôm giống và canh tác liên tục từ năm này sang năm khác. Công tác cải tạo ao vẫn còn sơ sài nên đất có điều kiện bị mặn rất nhanh. Việc khai thác đất đai quá mức này làm cho đất luôn trong tình trạng ngập nước mặn và từ đó làm tăng độ mặn của đất. Ngoài ra, đối với hộ thuộc các mô hình còn lại khi tiến hành cải tạo ao, nhiều hộ nuôi chỉ cho cày ải đất hoặc bón vôi mà không thực hiện việc rửa mặn bằng nguồn nước ngọt. Với cách làm đơn giản này, đất không được rửa mặn một cách triệt để do đó tổng lượng muối hoà tan trong đất ngày càng cao.
IV. KẾT LUẬN
Kết quả phân tích các số liệu thu được từ lấy mẫu thực địa và khảo sát hiện trường trong thời gian nghiên cứu cho thấy diện tích đất chuyển đổi từ trồng lúa sang nuôi tôm ngày càng tăng, trong khi đó trình độ kỹ thuật nuôi của các hộ dân còn thấp. Khoảng 10% diện tích ao nuôi bị bỏ trống sau vài vụ nuôi do đất bị nhiễm mặn. Các hộ nuôi theo mô hình QC và QCCT hầu hết chỉ nuôi 1 vụ vào mùa khô còn mùa mưa để trống ao. Các hộ nuôi theo mô hình TC và BTC thì nuôi 2 vụ/năm và nuôi liên tục từ năm này sang năm khác. Các nguyên nhân gây mặn đất được xác định là do hệ thống công trình thủy lợi phục vụ nuôi tôm chưa đáp ứng đủ yêu cầu vùng nuôi, hệ thống cấp thoát nước chưa hợp lý và còn chằng chịt, chưa có hệ thống cấp thoát nước riêng biệt, còn thiếu chủ động trong việc cung cấp nước ngọt. Kỹ thuật cải tạo ao nuôi chưa đúng quy cách, chủ yếu sử dụng biện pháp cơ học, chưa biết tận dụng nguồn nước mưa để rửa mặn. Thời gian nuôi liên tục nên các ao nuôi không được nghỉ ngơi.
Ao/vuông nuôi tôm bị mặn cần được rửa nhiều lần, mỗi lần khoảng 2.000m3 nước/ha, nên rửa mặn vào lúc trời nắng to và thực hiện vào đầu mùa mưa, nước dùng để rửa mặn là nước mưa hoặc nước sông kênh được lấy theo con nước. Sau khi cày, bừa kỹ rồi chờ bùn lắng xuống mới tháo nước đi và cho nước mới vào. Cần chú trọng đầu tư cơ sở hạ tầng, hệ thống kênh rạch cấp thoát nước (đào mương tiêu mặn cho nước thoát nhanh hơn), san phẳng mặt ruộng. Hình thành các vùng dự án có quy mô vừa và lớn cho nuôi tôm để được đầu tư đồng bộ, đảm bảo yêu cầu phát triển bền vững và có hiệu quả cao, tiến hành nạo vét thường xuyên kênh rạch để tránh hiện tượng bồi lắng. Chuyển dịch cơ cấu cây trồng, bố trí lịch thời vụ hợp lý để giảm căng thẳng về nước tưới trong mùa khô hạn, nâng cao hiệu quả sử dụng nước ngọt. Mở rộng mô hình nuôi QCCT và tôm - lúa. Còn với mô hình BTC và TC cần cho ao nghỉ 1 năm sau 2 năm nuôi đảm bảo cho việc phát triển bền vững và tránh đất bị nhiễm và tích tụ mặn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Lê Sâm (2006). Xâm nhập mặn ở Đồng bằng sông Cửu Long. Nhà xuất bản Nông nghiệp.
[2]. Vũ Thị Thược, Nguyễn Đình Vượng (2009). Ảnh hưởng của hoạt động nuôi tôm đến quá trình nhiễm mặn ở huyện Giá Rai - Bạc Liêu. Đại học Khoa học Tự nhiên Tp. HCM.
[3]. Hội Khoa học đất Việt Nam (1996). Đất Việt Nam. NXB Nông nghiệp, Hà Nội.
[4]. Phòng Thủy sản huyện Giá Rai (2004). Quy hoạch chi tiết nuôi thủy sản đến năm 2010 của huyện Giá Rai.
[5]. Ủy ban nhân dân huyện Giá Rai (2004). Báo cáo tóm tắt quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai huyện Giá Rai thời kỳ 2004- 2010.
[6]. Viện Khoa học Thủy lợi miền Nam (2007- 2010). Đánh giá suy thoái môi trường trong quá trình chuyển đổi đất nông - lâm sang nuôi trồng thủy sản ở các huyện ven biển Đồng bằng sông Cửu Long và đề xuất các giải pháp sử dụng bền vững tài nguyên đất – Đề tài khoa học cấp Nhà nước KC08-21/06-10.
[7]. Viện Khoa học Thủy lợi miền Nam (2008 - 2010). Nghiên cứu đề xuất quy trình rửa mặn phục hồi vùng đất bị nhiễm mặn do nuôi trồng thủy sản thuộc 2 tỉnh Bạc Liêu và Cà Mau – Đề tài khoa học cấp Bộ.
Tác giả: ThS. Nguyễn Đình Vượng, ThS. Trần Minh Tuấn, CN. Vũ Thị Thược
Viện Khoa học Thủy lợi Miền Nam - Viện Khoa học Thủy lợi Việt Nam
Tạp chí KH&CN Thủy lợi
Ý kiến góp ý: