Nuôi tôm ở đồng bằng sông Cửu Long - Những tồn tại và thách thức ảnh hưởng đến phát triển bền vững nghề nuôi
22/10/2014 Nuôi tôm ở Việt Nam nói chung và đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) nói riêng đã và đang phát triển mạnh trong những năm gần đây và trở thành ngành kinh tế quan trọng, tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập cho hàng triệu người dân ven biển và nguồn thu ngoại tệ đáng kể cho đất nước. Tuy nhiên, nghề nuôi tôm ở ĐBSCL đang phải đối mặt với rất nhiều vấn đề ảnh hưởng đến năng suất và chất lượng sản phẩm. Bài báo trình bày tổng quan về các hình thức nuôi tôm ở ĐBSCL hiện nay, tác động của chúng đến môi trường, đồng thời nêu lên những tồn tại, thách thức cơ bản ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững nghề nuôi, đó là: vấn đề quy hoạch, cấp thoát nước, xử lý chất thải, nước thải, suy thoái môi trường, vấn đề dịch bệnh và vấn đề cơ chế chính sách. I. GIỚI THIỆU Nuôi tôm nước lợ đã là nghề góp phần xoá đói giảm nghèo cho nhiều vùng ven biển của Đồng bằng sông Cửu Long. Theo số liệu thống kê năm 2000 diện tích nuôi tôm ở ĐBSCL chỉ là 250.000 ha, đến năm năm 2011 diện tích nuôi tôm của 8 tỉnh ven biển thuộc Đồng Bằng Sông Cửu Long đã lên đến trên 580.000 ha và chiếm trên 80% diện tích nuôi tôm của cả nước, cho sản lượng vào khoảng 367.000 tấn. Mặc dù có tốc độ phát triển rất mạnh về diện tích và hiện là vùng nuôi trọng điểm của cả nước, nuôi tôm ở ĐBSCL cũng đã và đang xuất hiện các vấn đề mất ổn định. Sau một thời gian phát triển mạnh và đem lại hiệu quả kinh tế khá cao, nghề nuôi tôm ở ĐBSCL vẫn chủ yếu phát triển mạnh về mặt diện tích mà chưa phát triển về năng suất dẫn đến hiệu quả sử dụng đất không cao. Dù nghề nuôi đã đem lại giá trị xuất khẩu khoảng 2 tỷ đô la mỗi năm, tạo công ăn việc làm cho hàng triệu lao động, nhưng hiện tại vẫn chưa có được quy hoạch tổng thể riêng cho nghề nuôi tôm mà ngành nuôi tôm vẫn nằm chung trong quy hoạch phát triển nuôi trồng thuỷ sản, điều này dẫn đến đầu tư về cơ sở hạ tầng, hậu cần nghề nuôi, công nghệ nuôi... chưa đáp ứng thực tiễn sản xuất. Dịch bệnh phát sinh và kéo dài dường như chưa bao giờ chấm dứt, cơ sở hạ tầng yếu kém, nguồn giống không đảm bảo về số lượng đặc biệt về chất lượng, suy thoái môi trường từ các khu vực nuôi tôm xuất hiện, năng suất từ các vùng nuôi quảng canh giảm mạnh, các tranh chấp xuất hiện giữa vùng nuôi tôm và vùng trồng lúa đang là thách thức của nghề nuôi tôm cần giải quyết. Tóm lại, nghề nuôi tôm đang đứng trước khó khăn, hạn chế và thách thức ngày càng lớn, đặc biệt là các vấn đề qui hoạch, cấp thoát nước, xử lý chất thải, nước thải, suy thoái môi trường, bệnh dịch tôm và vấn đề cơ chế chính sách. II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU - Phương pháp thu thập, thống kê tài liệu, số liệu từ 8 tỉnh ven biển Đồng Bằng Sông Cửu Long: Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Trà vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau và Kiên Giang. - Phương pháp khảo sát thực tế tại các trang trại nuôi tôm ở các tỉnh ven biển ĐBSCL. - Phương pháp so sánh, tổng hợp, đánh giá. III. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 3.1 Các hình thức nuôi tôm ở ĐBSCL và những vấn đề cần quan tâm Từ những năm 80, nghề nuôi tôm quy mô hàng hóa đã bắt đầu phát triển ở ĐBSCL, bước đầu là phát triển mô hình nuôi quảng canh sau đó phát triển dần sang mô hình nuôi quảng canh cải tiến, bán công nghiêp và công nghiệp. Bên cạnh đó các hình thức nuôi khác cũng được phát triển bao gồm nuôi tôm kết hợp trồng lúa, tôm rừng hay tôm cá. Mỗi một hình thức có các đặc điểm riêng biệt và nó phụ thuộc vào mức độ và tập quán nuôi trồng, các địa điểm nuôi và như vậy có rất nhiều hình thức nuôi. Tuy nhiên dựa trên 2 tiêu chí kỹ thuật nuôi và phương thức nuôi có thể phân thành 4 hình thức nuôi chính sau: 3.1.1 Nuôi tôm quảng canh (nuôi tự nhiên) Đây là hình thức nuôi tôm đơn giản nhất: Nuôi với mật độ thấp khoảng 0,5 đến 3 con/ m², con giống được lấy một phần từ tự nhiên, giống thả bổ sung không được kiểm soát về chất lượng, trong quá trình nuôi không cho ăn nên mô hình này ít có ảnh hưởng đến môi trường, tuy nhiên hiệu quả sử dụng đất không cao, do trao đổi nước thường xuyên không có kiểm soát nên không quản lý được tôm nuôi và tôm dễ bị mắc bệnh. Đây là mô hình ít có tác động đến môi trường, đầu tư thấp, không phải chăm sóc lợi dụng được một phần nguồn giống từ tự nhiên, có thu thêm được các đối tượng thuỷ sản khác như cua, cá tuy nhiên hình thức nuôi này cho năng suất rất thấp, trung bình khoảng 150 - 300kg/ha. Do tôm không được quản lý về sức khoẻ và mầm bệnh, chế độ trao đổi nước thường xuyên theo dòng triều do vậy ngoài nguy cơ bệnh dịch tiềm ẩn trong chính ao nuôi nó cũng là nơi lưu trữ duy trì và là nguồn lây lan bệnh ra toàn vùng. Hiện ở ĐBSCL vẫn tồn tại ở 2 dạng nuôi chính: - Nuôi tôm rừng: Đây là hình thức nuôi phát triển khá mạnh ở Cà Mau và Trà Vinh, các khu rừng ngập mặn được khoanh bao với diện tích từ 3 - 10 ha, độ che phủ của rừng từ 50- 70% còn lại là diện tích mặt nước nuôi tôm. Nguồn tôm giống lấy từ tự nhiên theo chế độ thủy triều và có thả bổ sung với mật độ từ 1 - 3 con/m2, không tiến hành cho ăn. Thu hoạch định kỳ theo con nước khoảng 15ngày/lần. Trong thời gian đầu mô hình này được đánh giá là có hiệu quả kinh tế và môi trường. Tuy nhiên, gần đây cũng đã thấy các tác động không tốt do việc đắp bờ khoanh nuôi dẫn đến nguồn nước ít được lưu thông, con giống từ tự nhiên bị giữ lại trong ao nên hiệu quả của rừng ngập mặn trong việc xử lý môi trường và bãi ương của các đối tượng thủy sản không được phát huy. Các dấu hiệu suy thoái về mặt sinh thái xuất hiện như rừng ngập mặn trong các ao tôm phát triển không tốt, độ che phủ rừng có xu thế giảm, nhiều loài động vật sống trong rừng ngập mặn tự nhiên không có điều kiện phát triển trong các đầm tôm rừng. - Nuôi tôm tự nhiên: Đây là hình thức trước đây phát triển khá mạnh ở các vùng cửa sông ven biển, người dân chặt hết rừng ngập mặn hình thành lên các vuông nuôi từ một vài đến hàng chục ha, không có đầu tư về cơ sở hạ tầng, con giống được lấy hoàn toàn tự nhiên theo triều và thu hoạch theo con nước 1 tháng 2 lần. Do nguồn giống từ tự nhiên đã cạn kiệt, nhu cầu sử dụng đất cao nên mô hình này hiện không còn nhiều mà dần chuyển sang hình thức nuôi quảng canh cải tiến. 3.1.2 Nuôi tôm quảng canh cải tiến Nuôi dựa trên nền tảng của mô hình nuôi tôm quảng canh nhưng mật đô nuôi cao hơn (2 - 10 con/m²). Trong khi nuôi có các biện pháp chăm sóc như bón phân để gây nguồn thức ăn cho tôm, giai đoạn cuối cho thêm thức ăn tự chế biến hay thức ăn dạng viên... Năng suất của mô hình đạt khoảng 300 kg/ha (200 - 500 kg/ha/năm). Đây là mô hình đã có đầu tư về kỹ thuật tuy nhiên kỹ thuật nuôi chưa cao, sử dụng thức ăn ít nên ảnh hưởng đến môi trường là không nhiều. Do nguồn nước vẫn chưa được kiểm soát vẫn được trao đổi thường xuyên và trực tiếp với nguồn nước trên kênh rạch theo chế độ triều, con giống vẫn chưa được kiểm soát về chất lượng và mầm bệnh nên mô hình vẫn tồn tại nhiều rủi ro về dịch bệnh. Đây cũng là mô hình có tác động xấu đến nghề nuôi như có thể là nơi lưu giữ nguồn bệnh và phát tán ra vùng nuôi. Hiện đây là mô hình nuôi chủ lực ở Đồng bằng sông Cửu Long. Hình thức nuôi của mô hình này có thể là chuyên tôm hoặc tôm lúa hay tôm cá... - Mô hình quảng canh cải tiến chuyên tôm: thường được phát triển từ các khu vực nuôi quảng canh tự nhiên và cải tạo để hình thành các ao nuôi có kích thước nhỏ hơn, người dân đã bắt đầu có đầu tư về con giống cũng như chăm sóc quản lý tuy nhiên do còn phú thuộc rất nhiều vào tự nhiên đặc biệt là trao đổi nước thường xuyên với bên ngoài nên mô hình không ổn định, do không kiểm soát được mầm bệnh và số lượng tôm. - Mô hình tôm lúa: Được phát triển trong các vùng trồng lúa trước đây chuyển sang nuôi 1 vụ tôm vào mùa khô hoặc các vùng chuyên tôm quảng canh không hiệu quả sang nuôi 1 vụ tôm và một vụ lúa. Hiện mô hình này phát triển khá mạnh ở các tỉnh Kiên Giang, Cà Mau, Bạc Liêu, Sóc Trăng. Đây là phương thức nuôi được đánh giá có hiệu quả cả về mặt kinh tế và môi trường. Mô hình này đang được tiếp tục đánh giá và xây dựng hoàn chỉnh để quy hoạch phát triển trên diện rộng. Với cách thức nuôi 1 vụ tôm vào mùa khô và cấy 1 vụ lúa vào mùa mưa; mật độ nuôi khoảng từ 6 - 10con/ m2 đang nâng cao hiệu quả sử dụng đất cho các vùng ven biển thuộc ĐBSCL. Với 2 đặc tính sinh thái đối ngược nhau (con tôm thích nghi với môi trường nước lợ - mặn; cây lúa thích nghi với môi trường nước ngọt) việc kết hợp lúa tôm trên cùng một vùng sinh thái là một sáng tạo. Mức độ tác động của mô hình này đến môi trường được xem là không nhiều tuy nhiên do chưa kiểm soát được nguồn con giống, chất lượng nước lấy vào ruộng nuôi không được kiểm soát, vì vậy đây cũng là hình thức nuôi còn chứa đựng nhiều rủi ro. 3.1.3 Nuôi bán thâm canh (bán công nghiệp) Đây là một trong những hình thức đang phát triển mạnh. Mật độ nuôi từ 10 -15 con/m2, Diện tích ao nuôi nhỏ từ 0,2 - 0,5 ha, được xây dựng hoàn chỉnh, có diệt khuẩn nguồn nước và lên màu nước trước khi thả giống, chất lượng con giống được kiểm soát Thức ăn sử dụng dạng công nghiệp từ 20 – 40% đạm, một số hộ sử dụng thêm thức ăn tự chế. Có chế độ quạt khí cung cấp oxi cho tôm, trong quá trình nuôi có dùng hóa chất để phòng trừ dịch bệnh. Việc thay nước được kiểm soát khá chặt chẽ, Sản lượng của mô hình này khoảng 800kg/ha/vụ (500 - 2000 kg/ha/vụ). Do nuôi với mật độ khá lớn, sử dụng thức ăn trong suốt quá trình nuôi nên nếu không có quá trình kiểm soát tốt thì mô hình nuôi này có tác động tiêu cực nhất định đến môi trường nuôi. 3.1.4 Nuôi thâm canh (nuôi công nghiệp) Đây là hình thức nuôi có sự đầu tư và quản lý cao: Diện tích ao nuôi từ 0,2 - 0,5 ha cần phải đầu tư vềvật chất và trang bị kỹ thuật nuôi khá hoàn thiện. Nước trước khi nuôi phải khử trùng để diệt mầm bệnh và diệt tạp. Mật độ nuôi cao (30 - 40 con/m2 đối với tôm sú và từ 100 - 200 con/m2 đối với tôm chân trắng). Thức ăn sử dụng là công nghiệp dạng viên khô loại từ 35 – 45% đạm, sử dụng suốt trong quá trình nuôi; quá trình nuôi có dùng quạt nước, một số hóa chất và chế phẩm sinh học. Theo hình thức nuôi này cần có chế độ quản lý tốt để khống chế điều kiện thích hợp môi trường nước trong ao. Giống được kiểm tra nguồn bệnh trước khi nuôi, có các biện pháp phòng trừ dịch bệnh. Môi trường nuôi thường bị ô nhiễm vào giai đoạn cuối do chất thải của tôm sinh ra vượt quá khả năng tự làm sạch của ao nuôi dẫn đến có các biến động bất thường khó kiểm soát. Sản lượng trung bình của mô hình này là từ 3-6 tấn/ha đối với tôm sú và từ 8 – 15 tấn/ha đối với tôm thẻ chân trắng. Ưu điểm: ao được xây dựng rất hoàn chỉnh, cấp và tiêu nước chủ động, có đầy đủ các trang thiết bị phương tiện để quản lý và vận hành. Nhược điểm: - Chi phí vận hành lớn. - Kinh nghiệm về xử lý dịch bệnh tôm còn thấp, nếu tôm bị bệnh lây lan hàng loạt sẽ gây thiệt hại lớn về kinh tế. - Tác động rất nhiều đến môi trường (làm suy thoái môi trường) nếu không có biện pháp xử lý chất thải sau khi nuôi. Nhìn chung, mặc dù ĐBSCL có diện tích nuôi tôm rất lớn, nuôi dưới nhiều hình thức khác nhau. Tuy nhiên phần lớn diện tích nuôi tôm vẫn còn là nuôi quảng canh, quảng canh cải tiến nên năng xuất và hiệu quả sử dụng đất không cao. Tại Sóc Trăng, và Bạc Liêu được coi là vùng nuôi tôm công nghiệp nhiều (Hình 1,2) – Nuôi tôm công nghiệp đã và đang là hình thức gia tăng sản lượng tôm nuôi cũng như nâng cao hiệu quả sử dụng đất. Hình 1: Tăng trưởng sản lượng tôm nuôi gắn lền với tăng trưởng diện tích nuôi tôm thâm canh và bán thâm canh tại Sóc Trăng Hình 2: Tỷ lệ ₫óng góp về mặt sản lượng tôm nuôi thâm canh và bán thâm canh so với tỷ lệ về diện tích ở Bạc Liêu 3.2 Những tồn tại và thách thức ảnh hưởng đến nghề nuôi Ở các nước có nghề nuôi tôm phát triển ổn định như Thái Lan, Nhật Bản, Mỹ ... việc quy hoạch, quản lý nghề nuôi đã vào ổn định. Quy hoạch vùng nuôi gắn với vấn đề nguồn nước cấp, vấn đề kỹ thuật nuôi, dịch vụ hậu cần và xử lý chất thải phát sinh được xem xét cặn kẽ nên tác động của nghề nuôi đến môi trường không quá lớn do vậy nghề nuôi luôn phát triển bền vững. Ở Việt nam cũng như ở ĐBSCL, trong phát triển và nuôi trồng thủy sản nói chung và nuôi tôm nước lợ nói riêng, vẫn còn nhiều tồn tại và thách thức. 3.2.1 Vấn đề quy hoạch Dù kim ngạch xuất khẩu tôm đem lại hơn 2 tỷ đô la và tạo công ăn việc làm cho hàng triệu lao động, tuy nhiên hiện tại chúng ta vẫn chưa có quy hoạch riêng cho nghề nuôi tôm mà nó chỉ được lồng ghép chung trong quy hoạch nuôi trồng thuỷ sản. Do vậy chưa chủ động đưa ra được chiến lược để phát triển nghành. Từ năm 2000 – 2007 diện tích nuôi tôm ở ĐBSCL tăng hơn hai lần từ 252.000 lên 573.000 ha và tiếp tục tăng nhẹ đến năm 2011 diện tích nuôi tôm của các tỉnh ĐBSCL đạt 580.000 ha. Đây thực là phát triển quá nhanh, không được quy hoạch và nằm ngoài sự kiểm soát của nhà nước. Trong thực tế, ở cấp quốc gia, cấp tỉnh thậm chí cấp huyện đã có các quy hoạch phát triển nuôi trồng thuỷ sản, tuy nhiên quy hoạch thường thiếu thực tế thiếu cơ sở khoa học và thường chỉ đưa ra định hướng chung chạy theo thực tế phát triển mà chưa hướng tới sự phát triển bền vững. Mặt khác, phần lớn các quy hoạch đều mang tính chất từ trên xuống, chủ yếu mới chỉ dừng lại ở xác định diện tích và sản lượng chứ chưa gắn kết với các mối liên hệ khác như nông nghiệp, chế biến, vấn đề thuỷ lợi cấp thoát nước, cơ sở hạ tầng phục vụ nghề nuôi... Ở ĐBSCL hiện nay có sự đối lập giữa tổng diện tích nuôi tôm với tỷ lệ diện tích nuôi thâm canh và bán thâm canh. Khi địa phương không chú trọng vào phát triển về mặt diện tích thì hình thức nuôi được phát triển chuyên sâu hơn sang hướng thâm canh và bán thâm canh (Hình 3). Rõ ràng nghề nuôi tôm ở ĐBSCL đã phát triển quá lớn về mặt diện tích dẫn đến khó có thể xây dựng được quy hoạch riêng sát với thực tế, chưa quy hoạch được vùng chuyên tôm trọng điểm để đầu tư xây dựng đồng bộ về cơ sở hạ tầng từ việc cấp và thoát nước, phát triển các công nghệ nuôi cho năng suất cao thân thiện với môi trường. Hình 3: Tổng diện tích nuôi tôm và tỷ lệ diện tích nuôi tôm thâm canh và bán thâm canh theo ₫ịa phương ở ĐBSCL Quy hoạch nuôi tôm nước lợ của Thái Lan cho thấy họ đã rất thành công với sự kiên định không mở rộng diện tích nuôi. Ngay từ những năm 1989 đến nay Thái Lan không gia tăng diện tích mà chỉ duy trì tối đa khoảng 76.000 ha (chỉ bằng khoảng 13% diện tích nuôi tôm của ĐBSCL hiện nay) để tập trung đầu tư cơ sở hạ tầng, phát triển công nghệ nuôi có tính ổn định làm chìa khoá để duy trì và phát triển nghề nuôi và hiện tại sản lượng nuôi tôm của Thái Lan lại cao hơn 1,5 lần so với vùng ĐBSCL. 3.2.2 Vấn đề cấp thoát nước Trong nuôi tôm được định nghĩa là “nuôi nước”, cách thức cấp nước cho nuôi tôm phải khác xa với cách thức cấp nước cho sản xuất nông nghiệp và như vậy không thể bê nguyên hệ thống thuỷ lợi phục vụ cho nông nghiệp trước đây để cấp và thoát nước cho nuôi tôm. Như đã nêu ở trên nghề nuôi tôm ở ĐBSCL phát triển mang tính tự phát, có thể nói chưa có khu vực nào được phát triển đồng bộ trong lĩnh vực cấp và thoát nước do các khu nuôi phát triển riêng lẻ, phần lớn là nông hộ và phát triển dần từ hình thức quảng canh, sang bán thâm canh và những hộ có điều kiện chuyển lên bán thâm canh và thâm canh. Do phát triển nhỏ lẻ nên dù muốn hay không thì hệ thống cấp nước vẫn phải dựa vào nguồn cấp chung của toàn vùng. Khảo sát vấn đề nuôi tôm và cấp thoát nước tại 8 tỉnh ĐBSCL cho thấy: Khu vực chịu ảnh hưởng từ sông Vàm Cỏ: Vùng này chỉ có tỉnh Long An bao gồm các khu nuôi thuộc các huyện Cần Giuộc, Cần Đước, Châu Thành và Tân Trụ. Nguồn nước cấp cho vùng nuôi khá dồi dào do khu vực này có biên độ triều lớn nên nước mặn có thể đẩy sâu vào vùng nuôi khi đỉnh triều, khi chân triều khả năng thoát nước cũng khá tốt. Tuy nhiên, chất lượng nguồn nước trong vùng này lại không ổn định do thường xuyên bị ảnh hưởng của nước thải từ các khu đô thị như Tân An, Bến Lức, đô thị Nam Sài Gòn cũng như từ các cụm công nghiệp tập trung trong vùng. Vào mùa mưa do khối nước ngọt đổ về nhiều nên độ mặn của nước giảm mạnh, nhiều thời điểm không thể cấp được cho nuôi tôm. Vùng này còn bị ảnh hưởng của nước chua phèn do sông Vàm cỏ Đông và Vàm Cỏ Tây chảy qua vùng đất phèn rộng lớn rửa trôi nước nhiễm phèn. Với các đặc điểm trên cho thấy nguồn nước cấp cho khu vực này không ổn định về mặt chất lượng ảnh hưởng trực tiếp đến con tôm. Vì vậy phương thức nuôi tôm trong tỉnh Long An chủ yếu vẫn là nuôi quảng canh cải tiến, nuôi thâm canh và bán thâm canh chiếm tỷ lệ rất nhỏ, chỉ khoảng 6,3%. Khu vực nằm hạ lưu của sông Tiền và sông Hậu: Khu vực này bao gồm các vùng nuôi tôm của 3 tỉnh Tiền Giang, Bến Tre và Trà Vinh. Vùng nuôi chịu ảnh hưởng trực tiếp của chế độ thuỷ triều biển Đông đồng thời địa hình bị chia cắt bởi các cửa sông lớn nên khá thuận lợi cho trao đổi nước và có điều kiện tốt về cấp và thoát nước cho nuôi tôm. Tuy nhiên, cũng có những yếu tố bất lợi, chẳng hạn nguồn nước trong vùng thường có nhiều phù sa ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng nước cũng như gây bồi lắng kênh rạch. Vào mùa lũ nguồn nước ngọt đổ về nhiều làm độ mặn nguồn nước giảm thấp ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn cấp cho nuôi tôm. Đối với các khu nuôi trong tỉnh Tiền Giang vùng nuôi tôm chỉ phát triển ở giáp ven biển và các cửa sông Vàm Cỏ, cửa Tiểu và cửa Đại nên việc lấy nước và cấp nước cho nuôi tôm là khá thuận lợi. Khoảng cách từ đầu kênh đến tâm vùng nuôi cũng khá ngắn từ sông lớn vào tâm vùng nuôi cũng chỉ từ 3 – 5 km. Với vùng nuôi nhỏ nguồn cấp khá tốt nên nghề nuôi ở khu vực này có hướng phát triển theo chiều sâu, tỷ lệ diện tích nuôi tôm thâm canh và bán thâm canh khá cao, vào khoảng 62% diện tích. Tuy nhiên, hệ thống cấp và thoát không được riêng biệt chủ yếu vẫn dựa vào kênh rạch tự nhiên nên điều tiết nước cấp vẫn còn khó đối với các hộ nằm xa biển và các sông lớn. Bến Tre và Trà Vinh về cơ bản nguồn nước khá giống với với Tiền Giang, tuy nhiên diện tích nuôi của Bến Tre và Trà Vình cao hơn rất nhiều so với Tiền Giang nên vấn đề cấp nước có nhiều khó khăn hơn. Khu vực Mỹ Thanh: Khu vực này cũng chị ảnh hưởng trực tiếp của chế độ thuỷ triều biển Đông có biên độ triều lớn nên có nhiều tiềm năng trong cấp và thoát nước. Tuy nhiên, cấp và thoát nước trong khu vực cũng xuất hiện một số vấn đề do đây là một trong những vùng nuôi tập trung nhất ở ĐBSCL. Nguồn nước trong khu vực này khá đục ảnh hưởng đến chất lượng nước cũng như gây bồi lắng kênh rạch làm giảm khả năng cấp và thoát nước trong vùng. Việc nuôi tập trung khá cao cùng với quy mô nuôi dạng công nghiệp và bán công nghiệp nhiều trong khi cấp và thoát đều là sông Mỹ Thanh dẫn đến nguồn nước ở đây luôn tồn tại nguy cơ mầm bệnh cũng như chất ô nhiễm từ các hộ nuôi không xử lý mà thải trực tiếp ra môi trường. Khu vực ven biển từ Mỹ Thanh đến Gành Hào: Cấp và thoát nước khu vực này khá tốt do khoảng cách kênh ngắn lại nối trực tiếp ra biển nên trao đổi nước tốt, tuy nhiên kênh cấp và thoát vẫn sử dụng chung. Khu nuôi thuộc lưu vực Gành Hào: Do nằm khá xa cửa sông Hậu, ảnh hưởng nước ngọt là không nhiều nên vào mùa khô độ mặn của nước tăng rất cao, không thuận lợi cho nuôi tôm. Đối với các khu vực nằm phía nam quốc lộ 1A khả năng cấp và thoát nước tốt hơn, tuy nhiên nguồn nước thường có nhiều cặn phù sa từ biển vào ảnh hưởng đến chất lượng nguồn nước cũng như gây bồi lắng kênh rạch. Trong vùng này hệ thống cấp và thoát vẫn còn dùng chung nên không thể kiểm soát được mầm bệnh. Đối với khu vực bắc quốc lộ 1A chủ yếu được chuyển đổi từ trồng lúa sang nuôi tôm, kênh mương ở đây được quy hoạch để trồng lúa nên khi chuyển đổi sang nuôi tôm khả năng tiêu thoát nước qua các cống khá hạn chế. Nguồn nước mang nhiều phù sa có nguồn gốc từ biển nên kênh rạch nhanh bị bồi lắng. Hệ thống mặn ngọt chưa được phân ranh nên việc lấy mặn cho nuôi tôm còn hạn chế. Khu nuôi vùng sông Bồ Đề: Trao đổi nước khu vực này khá tốt, nhưng do nằm xa sông hậu nên độ mặn nước ở đây khá cao, đặc biệt vào mùa khô, ảnh hưởng đến nghề nuôi. Nguồn nước trong khu vực này cũng khá đục làm giảm chất lượng nguồn nước cũng như gây bồi lắng kênh rạch. Các khu vực nuôi nằm ven biển Tây: Kéo dài từ cửa Bảy Háp đến Hà Tiên. Phía ven biển đã được đắp đê khá hoàn thiện và đầu kênh rạch phía biển về cơ bản đã được làm cống ngăn mặn trong điều kiện thuỷ triều biển Tây có biên độ khá thấp nên trao đổi nước khu vực này rất hạn chế, nguồn nước mặn chỉ xâm nhập vào sâu khoảng 10 – 15 km ở phía đầu Cà Mau và chỉ 5 – 10 km phía đầu Kiên Giang. Vì vậy vùng này chủ yếu là nuôi quảng canh cải tiến và mô hình nổi bật nhất vẫn là tôm lúa. Khu vực từ Rạch Giá đến Hà Tiên nguồn nước thường xuyên bị ảnh hưởng do rửa phèn từ vùng Tứ Giác Long Xuyên đã tác động đáng kể đến nguồn nước cấp. Đánh giá chung về vấn đề cấp và thoát nước trong nuôi tôm ở ĐBSCL như sau: Từ các phân tích trên cho thấy đối với vùng nuôi tôm ven biển Đông nhờ chế độ triều nên các vùng ven biển và gần sông có tiềm năng rất lớn trong cấp và thoát nước tuy nhiên nhiều khu vực do phát triển diện tích nuôi lớn, quy mô nuôi mang tính nông hộ nên việc cấp và thoát nước gần như chỉ dựa vào kênh rạch tự nhiên dẫn đến năng lực tiêu và thoát nước là hạn chế đặc biệt đối với các khu vực nuôi nằm sâu trong nội đồng. Chưa có khu vực nuôi nào có tuyết cấp và thoát riêng biệt theo hướng khác nhau đặc biệt trong điều kiện quy mô nuôi quảng canh cải tiến vẫn là hình thức nuôi chủ đạo là nguyên nhân duy trì và lây lan mầm bệnh dường như chưa bao giờ dừng. Diện tích nuôi quá lớn dẫn đến không có đầu tư cấp và thoát nước đồng bộ Kênh rạch mau chóng bị bồi lắng do nguồn nước thường có nhiều phù sa ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng nước cấp cũng như gây bồi lắng kênh rạch giảm khả năng tiêu thoát nước. Hệ thống cống trong các vùng chuyển đổi từ trồng lúa sang nuôi tôm là một trong những cản trở cho việc tiêu và thoát nước trong các vùng chuyển đổi. Một số khu vực chưa phân ranh rõ ràng giữa vùng nuôi tôm và trồng lúa nên không thể chủ động cấp đủ nước cho nuôi tôm và thoát triệt để chất thải từ hoạt động nuôi. Các khu nuôi quảng canh hay quảng canh cải tiến không có ao lắng mà lấy nước trực tiếp cũng là yếu tố làm ao nhanh chóng bị bồi lắng. Nguồn thải từ hoạt động sinh hoạt vẫn bị đổ trực tiếp vào nguồn nước ảnh hưởng đáng kêt đến chất lượng nước cấp đặc biệt đối với vùng nuôi ở Long An và Tp. Cà mau. Nước bị nhiễm phèn ảnh hưởng khá mạnh đến chất lượng nước cấp cho các vùng nuôi tôm ở Long An và Kiên Lương. Đối với khu vực ven biển Tây do hệ thống đê bao, công điều tiết nên khả năng trao đổi nước là rất hạn chế dẫn đến cấp và thoát nước sẽ khó khăn. 3.2.3 Vấn đề xử lý chất thải, nước thải Nuôi tôm trên diện rộng đang còn nhiều vấn đề nan giải tiếp tục phải bàn về vấn đề môi trường: Đó là vấn đề xử lý và tiêu thoát chất thải vuông tôm, vấn đề ô nhiễm do thức ăn dư thừa, vấn đề mầm bệnh lây lan…Việc phòng ngừa lây lan dịch bệnh giữa các ao nuôi, đầm nuôi, các trại sản xuất tôm giống nếu không được quan tâm đúng mức và thải thẳng ra môi trường sẽ dẫn đến hậu quả là dịch bệnh tràn lan trên diện rộng, làm tôm chết hàng loạt trong các ao, đầm nuôi. Ngoài ra sự gia tăng dân số, đô thị hóa sẽ làm phát sinh lượng rác thải, nước thải. Hệ thống tiêu nước thải của nhân dân trong vùng không được xử lý tại chỗ nên hầu hết các loại phân hữu cơ của người, gia súc, gia cầm đều được thải trực tiếp ra kênh. Nước mặt bị nhiễm bẩn hữu cơ là trở ngại chính cho việc cung cấp nước cho NTTS. Quá trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa hình thành các khu công nghiệp, khu chế biến thủy sản... Vì vậy, lượng chất thải sẽ tăng lên trong thời gian tới, nếu không xử lý triệt để trước khi thải ra môi trường sẽ ảnh hưởng lớn đến nguồn nước trên các sông rạch, trực tiếp ảnh hưởng đến hoạt động nuôi trồng thủy sản. 3.2.4 Vấn đề suy thoái môi trường Vấn đề suy thoái môi trường cũng xuất phát từ việc phát triển nuôi tôm tràn lan không có quy hoạch. Sự phát triển mang tính tự phát dẫn đến không qaunr lý được môi trường. Đối với các trại quản canh, quảng canh cải tiến hay tôm lúa mặc dù trong quá trình nuôi tác động ô nhiễm môi trường là không đáng kể tuy nhiên quá trình cải tạo các ao nuôi này lại có những tác động khá lớn đến môi trường do việc nạo vét bùn kênh rạch thường được thải trực tiếp ra kênh rạch là một trong những nguyên nhân gây đục nguồn nước cũng như bồi lắng kênh rạch làm giảm khả năng tiêu thoát nguồn nước. Đối với các khu nuôi tôm công nghiệp hay bán công nghiệp nước sau khi nuôi có hàm lượng chất ô nhiễm khá lớn được thải trực tiếp ra môi trường mà không được xử lý, một số hộ dân vẫn bơm xả bùn thải trực tiếp ra kênh rạch làm môi trường nước nhanh chóng bị suy thoái. Đáng chú ý các kênh rạch này chính lại là kênh cấp nước dẫn đến chất thải từ khu nuôi này lại được lấy cấp cho khu nuôi khác. Nguồn thải từ các ao nuôi bị bệnh cũng là yếu tố đóng góp lớn gây mất ổn định nghề nuôi trong thời gian qua. Do các ao nuôi quảng canh không kiểm soát được bệnh dịch, quá trình trao đổi nước diễn ra tự nhiên không có kiểm soát nên khi ao bị mắc bệnh mầm bệnh sẽ được lan theo dòng nước ra toàn vùng. Một số ao nuôi thâm canh hay bán thâm canh khi bị bệnh do ý thức của chủ hộ nuôi hoặc các hộ nuôi không có tiền để tiêu diệt nguồn bệnh nên nước từ ao tôm bị bệnh được thải trực tiếp ra kênh rạch. Với đặc điểm trên mầm bệnh sẽ làn tràn ra toàn vùng đặc biệt nó sẽ được lưu trú trong các ao nuôi tôm quảng canh, quảng canh cải tiến, tôm rừng hay tôm lúa và dẫn lại bị phát tán ra nguồn nước. 3.2.5 Vấn đề dịch bệnh trong nuôi tôm Nuôi tôm là hoạt động đặc thù, nghề nuôi hoàn toàn gắn với môi trường nước và được coi như là nghề có độ rủi ro cao nhất. Độ rủi ro cao không phải do kỹ thuật nuôi tôm khó khăn mà do tác động của môi trường đặc biệt là nguồn bệnh dịch phát tán theo nguồn nước tác động trực tiếp đến con tôm nuôi (Hình 4). Các yếu tố này được mô phỏng theo công thức T + V + B2 = K T: Sức đề kháng của tôm V: Mầm bệnh B: Yếu tố bất lợi về môi trường Hình 4: Mối quan hệ giữa con tôm với môi trường và bệnh dịch Ở ĐBSCL dịch bệnh là kẻ thù số một gây thiệt hại trong nuôi tôm. Có thể nói bệnh dịch xuất hiện mọi lúc mọi nơi ở tất cả các vùng nuôi tôm. Chưa lúc nào người nuôi tôm thoát khỏi nỗi lo về bệnh dịch và nó đã làm điêu đứng bao vùng nuôi tôm. Các đợt dịch gần đây cho thấy năm 2004 có 28% số hộ thả nuôi tôm sú bị thiệt hại nặng do tôm nuôi bị chết; năm 2005 có 34% và năm 2006 có 20% số hộ bị thiệt hại. Đợt dịch vào cuối năm 2007 đầu năm 2008, đầu năm 2009 đã tàn phá các khu vực nuôi tôm của vùng Đồng bằng sông Cửu Long, chỉ tínhn riêng tỉnh Kiên Giang đã có tới 50% diện tích tôm nuôi bị dịch không cho thu hoạch. Tiếp tục đợt dịch bệnh vào tháng 4, 5 năm 2011 đã thực sự tàn phá các vùng nuôi tôm, điển hình là tại các vùng nuôi tôm ở tỉnh Sóc Trăng thiệt hại lên đến trên 90% diện tích nuôi, nhiều khu vực thiệt hại trắng và ước tính mức độ thiệt hại về kinh tế của Sóc Trăng trong đợt dịch năm 2011 vừa qua là khoảng trên 1.000 tỷ đồng. Các địa phương khác được coi là may mắn dịch bệnh tác động không quá lớn như Cà Mau, Long An mức độ thiệt hại cũng vào khoảng 50% về mặt diện tích. Rõ ràng từ cấp nước nêu trên đã cho thấy việc phát triển diện tích lớn, không có quy hoạch các khu nuôi không được quy hoạch rõ ràng để quản lý, các ao nuôi công nghiệp nằm trong các khu nuôi quảng canh, quản canh cải tiến, nguồn nước cấp cho các khu công nghiệp cũng chính là nguồn cấp cho các hình thức nuôi khác chính là các rủi ro lây lan nguồn bệnh cho các khu nuôi công nghiệp dẫn đến thiệt hại cho nghề nuôi như thời gian qua. 3.2.6 Vấn đề cơ chế, chính sách Nhìn chung, các chủ trương, chính sách vĩ mô của Chính phủ dành cho ngành nuôi trồng thuỷ sản đã tính đến việc hài hoà các mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội và môi trường nhằm duy trì tốc độ tăng trưởng cao và bền vững. Tuy nhiên việc triển khai các chủ trương, chính sách nhà nước đã bộc lộ nhiều bất cập. Quy hoạch, giống, vốn, quản lý môi trường, quản lý dịch bệnh chưa đáp ứng đủ cho 1 ngành phát triển với tốc độ quá nhanh. Các mục tiêu chính sách bị cắt xén và chạy theo lợi ích trước mắt. Chính quyền địa phương các cấp và người dân thường “tiếp thu” các chủ trương chính sách của nhà nước một cách “có chọn lọc”. Các mục tiêu chính sách đem lại lợi nhuận trước mắt thường được bành trướng lên và các mục tiêu về môi trường và duy trì tính bền vững thì bị mai một. Chẳng hạn, nhiều dự án quy hoạch phát triển nuôi tôm công nghiệp đã “mạnh dạn” cắt bỏ các phần dành cho việc xử lý môi trường như hồ chứa lắng, bãi chứa thải, vành đai đệm rừng ngập mặn. Thậm chí có địa phương còn năng động hơn khi giao khoán hồ chứa lắng cho dân để hàng năm tăng thêm được một ít ngân sách. Ngoài ra chính sách của Chính phủ cũng thiếu tính nhất quán, dễ bị thay đổi trong một thời gian ngắn. Chẳng hạn các mục tiêu chính sách đặt ra trong quyết định 224/1999/QĐ-TTg phê duyệt chương trình phát triển nuôi trồng thuỷ sản thời kì 1999-2010 đã phải điều chỉnh khi Chính phủ ban hành Nghị quyết 09 về việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp (2000). Việc điều chỉnh các mục tiêu chính sách quá gấp dẫn đến môi trường chính sách không ổn định, làm cho người dân và các nhà doanh nghiệp không an tâm đầu tư. Công tác hoạch định chính sách phát triển ngành cũng có phần bị động, thiếu tính dài hạn và mang đậm tính đột xuất nhằm giải quyết các sự vụ. Việc này ảnh hưởng bất lợi đến hiệu quả đầu tư. Hệ thống văn bản qui phạm pháp luật về bảo vệ môi trường trong lĩnh vực nông nghiệp nông thôn nói chung và nuôi trồng thủy sản nói riêng chưa đầy đủ và đồng bộ, đôi khi chưa phản ánh đúng thực tế. Việc thực thi pháp luật, chế tài xử phạt còn thiếu và yếu. IV. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ Đồng Bằng Sông Cửu Long hiện nay đang tồn tại nhiều hình thức nuôi tôm (nuôi quảng canh, quảng canh cải tiến, bán công nghiệp và công nghiệp, nuôi tôm kết hợp trồng lúa, nuôi tôm rừng hay tôm cá), tuy nhiên việc phát triển nuôi công nghiệp trên quy mô tập trung cần được khuyến khích và cần phải được quy hoạch nhằm duy trì tăng trưởng của nghề nuôi, tăng cao hiệu quả sử dụng đất, đầu tư quản lý nghề nuôi có trọng điểm. Một trong những nguyên nhân chủ yếu của việc giảm năng suất trầm trọng là xuất phát từ việc phát triển nuôi nóng vội không có quản lý và quy hoạch cụ thể dẫn đến làm suy thoái môi trường, ảnh hưởng đến chất lượng nguồn nước, bệnh dịch phát sinh tràn lan không thể kiểm soát. Quá trình chuyển đổi nhanh, việc rà soát điều chỉnh quy hoạch thủy lợi phục vụ NTTS vùng ven biển ĐBSCL chưa theo kịp quá trình chuyển đổi, do vậy quy hoạch thủy lợi chưa chủ động, lung túng. Trong quy hoạch việc khoanh vùng nuôi, chọn mô hình nuôi chưa đủ cơ sở khoa học vững chắc nên dễ bị biến động. Bước đi quy hoạch phụ thuộc quá nhiều vào điều kiện khách quan, thiếu tính khả thi. Hiện các tỉnh đã có quy hoạch điều chỉnh cơ cấu sản xuất, một số tỉnh, một số huyện đã có quy hoạch thủy lợi phục vụ NTTS, một số dự án thủy lợi phục vụ NTTS đã được lập, được nghiệm thu, xong tình trạng chung hiện nay là quy hoạch treo, dự án treo, do không có tiền đầu tư để thực hiện quy hoạch, thực hiện dự án. Để phát triển bền vững nghề nuôi tôm ở ĐBSCL, cần phải có các giải pháp thiết thực để khắc phục khó khăn, tồn tại hiện nay, đó là: vấn đề qui hoạch, cấp thoát nước, xử lý chất thải, nước thải, suy thoái môi trường, vấn đề dịch bệnh và vấn đề cơ chếchính sách. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. GS. TS. Đặng Đình Kim (2004), Báo cáo tổng kết đề tài KHCN: Nghiên cứu công nghệ xử lý bùn ao nuôi tôm góp phần làm sạch môi trường nuôi trồng thủy sản và sản xuất phân bón hữu cơ - vi sinh, Viện Nghiên cứu nuôi trồng Thủy sản I, tháng 5 năm 2004. [2]. Nathanael Hishamunda and Peter Manning. Promotion of Sustainable Commercial Aquaculture in Sub-Saharan Africa, Volume 2: Investment and Economic Feasibility. FAO Fisheries Technical Paper 408/2. Food and Agriculture Organization of the United Nations. Rome, 2002. Tác giả: TS. Trịnh Thị Long, ThS. Dương Công Chinh Tạp chí KH&CN Thủy lợi
Viện Khoa học Thủy lợi Miền Nam
Ý kiến góp ý: