Tác động của hồ chứa lưu vực Mê Công đến tích nước của hồ Tonle Sap cuối mùa mưa - đầu mùa khô
04/07/2022Các hồ chứa thượng lưu Mê Công đã có nhiều tác động đến lưu vực, đặc biệt là thay đổi chế độ thủy văn, thủy lực, trong đó có hồ Tonle Sap (TLS) thuộc Campuchia. Việc đánh giá tác động đến hồ TLS cũng có nhiều mặt đáng quan tâm, trong đó có sự suy giảm dung tích hồ.
Nghiên cứu của chúng tôi, được trình bày dưới đây, tập trung vào việc phát hiện tác động của việc cắt lũ đến thay đổi dung tích hồ TLS, nhất là thời kỳ cuối mùa mưa, đầu mùa khô. Qua khảo cứu bằng mô hình toán (MHT), nghiên cứu đã đánh giá được mức suy giảm dung tích hồ TLS theo 3 kịch bản (1) Không cắt lũ; (2) Cắt lũ 34 tỷ m3, (3) Cắt lũ 45 tỷ m3 ứng với 3 nhóm năm nhiều, vừa và ít nước, sử dung các năm thủy văn trong thời kỳ 2011-2019.
Kết quả đã chỉ ra rằng, với mức cắt lũ 34 và 45 tỷ m3 của các hồ thượng lưu đã làm giảm dung tích hồ TLS (so với không cắt) ở thời điểm đầu mùa khô (31/12) và lượng suy giảm này thay đổi theo các năm thủy văn: với nhóm năm nhiều nước, mức giảm tương ứng khoảng 6-8,5% ; năm vừa nước giảm 10-14% và năm ít nước giảm 15-20%. Kết quả này đã tạo thuận lợi lớn trong việc đánh giá khả năng cấp nước của hồ vào mùa khô cho cả châu thổ Mê Công nói chung và ĐBSCL nói riêng.
1. GIỚI THIỆU CHUNG
2. VẤN ĐỀ, NGUỒN SỐ LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Vấn đề nghiên cứu
2.2. Nguồn số liệu
2.3. Phương pháp và công cụ nghiên cứu
3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Cơ chế tác động của hồ chứa lưu vực đến trữ nước hồ Tonle Sap
3.2. Các kịch bản tính toán tác động của hồ đến dung tích trữ của hồ TLS
3.3. Sự thay đổi dung tích các hồ TLS theo các thời điểm
4. KẾT LUẬN KIẾN NGHỊ
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Bộ Tài nguyên Môi trường (2015), Nghiên cứu tác động thủy điện dòng chính Mê Công đến Đồng bằng sông Cửu Long (MDS), do HDR và DHI thực hiện.
[2] Tăng Đức Thắng và nnk (2016), Diễn biến ngập lũ đồng bằng sông cửu long theo một số kịch bản bao đê, Tạp chí KHCN Thủy lợi, 2016.
[3] Viện Khoa học Thủy lợi Việt Nam (2020), Báo cáo tổng kết đề tài cấp nhà nước KC08-04_16-20: Nghiên cứu biến động dòng chảy thượng lưu Mê Công và điều kiện khí hậu cực đoan ở Đồng bằng sông Cửu Long và đề xuất các giải pháp chuyển đổi sản xuất, do Tô Quang Toản làm chủ nhiệm.
[4] Viện Khoa học Thủy lợi miền Nam (2020), “Báo cáo giai đoạn 1, Đề tài Nhà nước KC08, 25/16-20: Nghiên cứu diễn biến nguồn nước, chất lượng nước và đề xuất các giải pháp khai thác thích hợp nhằm nâng cao hiệu quả và hạn chế rủi ro thiên tai (hạn mặn) vùng nuôi thủy sản, trồng trọt ven biển đồng bằng sông Cửu Long ”, do Tăng Đức Thắng làm chủ nhiệm.
[5] G, M, Kondolf, Z, K, Rubin, and J, T, Minear (2014), Dams on the Mekong: Cumulative sediment starvation, 2014, American Geophysical Union.
[6] M. Kummu, S. Tes, S. Yin, P. Adamson, J. Józsa, J. Koponen, J. Richey and J. Sarkkula Water balance analysis for the Tonle Sap Lake–floodplain system, J. Hydrological processes hydrol. process. 28, 1722–1733 (2014).
[7] Mekong River Commission (MRC), trang WEB: “http://www.mrcmekong.org”.
[8] Mekong River Commission (MRC, 2005), “Overview of the Hydrology of the Mekong Basin”.
[9] Mekong river commission (2017), The Council Study, Study on the sustainable management and development of the Mekong River, including impacts of mainstream hydropower projects, Vientiane.
[10] MRC(2019), State of the basin report 2018, Vientiane: Mekong River Commission Secretariat.
[11] Wei QU, Ni HU , June FU, Jingxuan LU, Hui LU, Tianjie Lei, Zhiguo PANG, Xiaotao LI, Lin LI, Analysis of the Tonle Sap flood pulse based on remote sensing: how much does Tonle Sap lake affect the mekong river flood, The International Archives of the Photogrammetry, Remote Sensing and Spatial Information Sciences, Volume XLII-3, 2018 ISPRS TC III Midterm Symposium “Developments, Technologies and Applications in Remote Sensing”, 7–10 May, Beijing, China.
________________________________________________________________________
Chi tiết bài báo xem tại đây: Tác động của hồ chứa lưu vực Mê Công đến tích nước của hồ Tonle Sap cuối mùa mưa - đầu mùa khô
Tăng Đức Thắng, Phạm Văn Giáp, Nguyễn Thanh Hải, Tô Quang Toản,
Nguyễn Văn Hoạt, Phạm Ngọc Hải và Nguyễn Phương Mai
Viện Khoa học Thủy lợi miền Nam
TẠP CHÍ KH&CN THỦY LỢI
Ý kiến góp ý: