Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Nguyễn Hoàng Hiệp làm việc với Viện Khoa học Thủy lợi Việt Nam
22/04/2019Sáng 19/4/2019, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Nguyễn Hoàng Hiệp đã có buổi làm việc với Viện Khoa học Thủy lợi Việt Nam.
Tham dự buổi làm việc có PGS.TS. Nguyễn Vũ Việt - Bí thư Đảng ủy - Giám đốc Viện Khoa học Thủy lợi Việt Nam; GS.TS. Trần Đình Hòa - Phó Giám đốc Viện, PGS.TS. Nguyễn Tùng Phong - Phó Giám đốc Viện; lãnh đạo các Ban chức năng, lãnh đạo các đơn vị trực thuộc Viện; đại diện Công đoàn và Đoàn Thanh niên Viện. Ban Giám đốc Viện tặng hoa chúc mừng Thứ trưởng Nguyễn Hoàng Hiệp Thay mặt cho Viện Khoa học Thủy lợi Việt Nam, PGS.TS. Nguyễn Vũ Việt - Giám đốc Viện cũng đã báo cáo về tổ chức và hoạt động khoa học công nghệ của Viện Khoa học Thủy lợi Việt Nam bao gồm các thông tin chung về Viện; các kết quả nghiên cứu và chuyển giao khoa học và công nghệ nổi bật của 7 nhóm lĩnh vực chính của Viện bao gồm lĩnh vực tài nguyên nước; chỉnh trị sông, bảo vệ bờ biển, phòng chống và giảm nhẹ thiên tai; thủy nông cải tạo đất và cấp thoát nước, môi trường; công nghệ xây dựng và bảo vệ công trình thủy lợi, thủy điện; thiết bị cơ điện chuyên dùng thủy lợi; kinh tế chính sách; công nghệ thông tin, tự động hóa và phần mềm; các cơ hội, thách thức và các định hướng trọng tâm trong thời gian tới của Viện. Bên cạnh đó Giám đốc Viện cũng đã báo cáo với Thứ trưởng về tình hình thực hiện Nghị quyết 19 của Viện; tỷ lệ nghiên cứu thuần và dịch vụ của Viện; vấn đề chuyển giao và phương thức chuyển giao các kết quả nghiên cứu khoa học của Viện và cơ chế tạo động lực cho các cán bộ nghiên cứu khoa học trong Viện. Phát biểu tại buổi làm việc, GS.TS. Trần Đình Hòa - Phó Giám đốc Viện Khoa học Thủy lợi Việt Nam cho biết thêm qua kinh nghiệm thực tiễn của Viện trong những năm vừa qua, tỷ lệ nghiên cứu thuần và dịch vụ của Viện là 20-30%. Theo GS.TS. Trần Đình Hòa nếu tỷ trọng giữa nghiên cứu nhiều hơn so với dịch vụ thì nghiên cứu mang tính chất lý thuyết, tính ứng dụng thực tiễn kém và không tốt, ngược lại nếu nghiên cứu ít mà dịch vụ nhiều thì cũng không có động lực và Viện sẽ bị giảm mất chiều sâu về nghiên cứu của một đơn vị nghiên cứu, do vậy tỷ lệ 20-30% là “tỷ lệ vàng”; vừa nghiên cứu vừa ứng dụng vào thực tiễn rất tốt. Đặc điểm của Viện khác với các Viện khác trong Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đó là các kết quả nghiên cứu của Viện không chỉ mang tính chất chuyển giao một cách trực tiếp cho người dân, doanh nghiệp mà mang tính chất phục vụ công ích, cho công tác điều hành quản lý của Bộ, ngành. Mặt khác, sản phẩm nghiên cứu của Viện đã lồng ghép với các kết quả nghiên cứu. Các kết quả nghiên cứu của Viện lại phụ thuộc vào những đặt hàng, nguồn lực dự án cũng như Bộ, Nhà nước đầu tư do vậy, GS.TS. Trần Đình Hòa mong muốn Thứ trưởng tạo điều kiện để các cán bộ khoa học, chuyên gia của Viện tham gia vào các dự án mang tính chất phục vụ sản xuất để Viện có cơ hội ứng dụng các kết quả nghiên cứu khoa học của mình vào thực tế. Bổ sung thêm một số ý kiến của Giám đốc Viện, PGS.TS. Nguyễn Tùng Phong - Phó Giám đốc Viện cho rằng Bộ, ngành chính là những khách hàng của Viện khi Viện hoàn thành các sản phẩm khoa học công nghệ để chuyển giao do vậy cần phải có cơ chế đặc biệt cho việc sử dụng các kết quả nghiên cứu chuyển giao vào sản xuất đặc biệt là các nhiệm vụ hay các dự án của Bộ, ngành. Đối với các đầu tư nghiên cứu về cơ chế, thể chế chính sách và các vấn đề liên quan đến công tác nghiên cứu khoa học, nghiên cứu cơ bản, Nhà nước cần phải tiếp tục đầu tư để lấy cơ sở khoa học cho các nghiên cứu tiếp theo, nghiên cứu ứng dụng phục vụ cho các nhiệm vụ của Bộ, ngành. Về cơ chế tạo động lực cho các cán bộ khoa học, đối với các nhiệm vụ khoa học công nghệ cần khoán kinh phí thực hiện, không khoán theo lương, khoán đến sản phẩm khoa học cuối cùng, theo sản phẩm Viện chuyển giao; tạo cơ chế liên doanh liên kết với các doanh nghiệp để Viện từng bước thương mại hóa các sản phẩm khoa học công nghệ của Viện. Viện cung cấp các gói giải pháp, gói công nghệ; các sản phẩm khoa học công nghệ tích hợp các công nghệ, không đi vào từng công nghệ cụ thể, không chỉ riêng tưới tiết kiệm nước mà còn vấn đề dự báo, cảnh báo, hạn hán, xâm nhập mặn, dự báo sạt lở… đây là hướng đi của Viện trong tương lai, PGS.TS. Nguyễn Tùng Phong - Phó Giám đốc Viện cho biết thêm. Kết luận tại buổi làm việc, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Nguyễn Hoàng Hiệp đã đánh giá cao khối lượng công việc của Viện trong các năm vừa qua, đặc biệt trong giai đoạn gần đây vai trò của Viện ngày càng lớn, ngày càng được khẳng định; đã hỗ trợ rất nhiều và có hiệu quả trong công tác quản lý điều hành của Bộ, tạo tiếng vang trong ngành nông nghiệp phát triển nông thôn. Thứ trưởng đề nghị trong thời gian tiếp theo cần xem xét lại cơ chế, tổ chức bộ máy, chiến lược nghiên cứu… và mong muốn được nghe thêm về dự án mực nước dâng sông Hồng; vấn đề vận hành hồ chứa, liên hồ chứa, lưu vực sông; nước sinh hoạt ở đồng bằng sông Cửu Long và những vấn đề liên quan đến Nghị quyết 120.
Ý kiến góp ý: