Xây dựng 'ngân hàng cát' cho ĐBSCL
01/11/2022Trung bình mỗi năm ĐBSCL mất khoảng 500ha đất, trong 3 năm (2018–2020) thiệt hại hơn 200 tỷ đồng do sạt lở tại An Giang, Đồng Tháp, Cần Thơ, Vĩnh Long và Cà Mau.
Thiết bị đo đạc được thả xuống dòng sông Hậu để tính lượng bùn cát đổ về hàng năm. Ảnh: Lê Hoàng Vũ
Trung bình mỗi năm ĐBSCL mất khoảng 500ha đất
Từ ngày 28/10 đến ngày 2/11, đoàn khảo sát của Dự án Quản lý khai thác cát bền vững tại ĐBSCL kết hợp cùng các nhà khoa học đo đạc lượng bùn, cát từ sông Mekong đổ về ĐBSCL ở 11 vị trí trên sông Tiền và sông Hậu. Đây là Dự án “Giảm thiểu tác động biến đổi khí hậu và phòng chống thiên tai thông qua sự tham gia của khối công - tư trong khai thác cát bền vững ĐBSCL” (Dự án Quản lý Cát bền vững ở ĐBSCL) do WWF-Việt Nam phối hợp cùng Tổng cục Phòng chống thiên tai và các tỉnh thành khu vực ĐBSCL thực hiện.
Dự án nhằm góp phần giải quyết 4 vấn đề về: Xây dựng ngân hàng cát cho ĐBSCL. Tăng cường nhận thức của cộng đồng và các cơ quan ra quyết định về những tác động của khai thác cát không bền vững. Tăng cường khả năng cho các đối tác truy cập thông tin về rủi ro liên quan đến khai thác cát không bền vững. Thúc đẩy nghiên cứu và phát triển các nguồn vật liệu thay thế cát sỏi trong lĩnh vực xây dựng.
Cán bộ kỹ thuật tính lượng bùn cát đổ về sông Hậu và sông Tiền. Ảnh: Lê Hoàng Vũ
Nhóm chuyên gia là các nhà khoa học đã chia sẻ những thông tin liên quan đến nguồn cát trên sông. Theo đó, ĐBSCL đang bị đe doạ do khai thác cát quá mức, dễ thấy nhất là tình trạng sạt lở gia tăng. Trung bình mỗi năm ĐBSCL mất khoảng 500ha đất. Trong 3 năm (2018 – 2020) thiệt hại hơn 200 tỷ đồng do sạt lở tại An Giang, Đồng Tháp, Cần Thơ, Vĩnh Long, Cà Mau. Việc khai thác cát quá mức cũng làm gia tăng độ sâu lòng sông. Theo đó, giai đoạn 1998-2008, độ sâu của lòng sông Tiền và sông Hậu tăng thêm 1,5m. Giai đoạn 2009-2016 độ sâu của lòng sông Tiền, sông Hậu tăng thêm 5-10m và kéo theo 66% đường bờ biển của ĐBSCL bị xói mòn, toàn vùng có 621 điểm sạt lở kéo dài 610km.
Ông Hà Huy Anh, Quản lý Quốc gia dự án Quản lý Cát bền vững tại ĐBSCL, cho biết: Kết quả khảo sát từ mùa khô năm 2022 cho thấy, lượng cát ghi nhận tại Tân Châu – An Giang là khu vực có lượng cát đổ về lớn nhất khu vực ĐBSCL. Đối với những khu vực có đụn cát ở đáy sông thì khối lượng cát vận chuyển ở đáy trung bình chỉ còn khoảng 30m3/năm/m ngang sông. Như vậy, chúng ta thấy rằng lượng cát đổ về rất hạn chế. Kết quả khảo sát gần đây cho thấy, từ dòng Mekong đổ về sông Hậu chủ yếu là cát mịn, rất mịn lẫn bùn hữu cơ, còn ở sông Tiền mới ghi nhận có cát đổ về do nằm liền dòng chính Mekong.
Theo ông Hà Huy Anh, từ kết quả các đợt khảo sát mùa khô và mưa năm 2022 (kết thúc 17/10/2022) và khảo sát bùn cát, thủy văn thuộc gói hoạt động xây dựng kế hoạch phục hồi hình thái sông (kết thúc 6/01/2022) là dữ liệu quan trọng để tiến tới xây dựng kế hoạch phục hồi hình thái sông khu vực ĐBSCL. Đồng thời đưa ra các khuyến cáo “đỏ” về những địa điểm nên tạm ngưng khai thác cát để tránh phát sinh sạt lở nghiêm trọng và khu vực được khai thác “xanh” gắn với khối lượng phù hợp để tránh xói mòn đáy và sạt lở bờ.
Từ kết quả các đợt khảo sát, thu thập các mẫu cát ở nhiều vị trí trên sông Hậu và sông Tiền là dữ liệu quan trọng tiến tới xây dựng ngân hàng cát cho ĐBSCL. Ảnh: Lê Hoàng Vũ
Xây dựng 'ngân hàng cát' cho ĐBSCL
Ông Trần Tuấn Anh, Nghiên cứu viên của Trung tâm nghiên cứu chỉnh trị sông và phòng chống thiên tai (Viện Khoa học Thủy lợi miền Nam) cho biết: Qua đợt khảo sát trong mùa khô tháng 4/2022 vừa qua của dự án, kết quả phân tích cho thấy, lượng bùn cát vận chuyển về ĐBSCL vào mùa khô rất hạn chế. Cụ thể, đối với những khu vực sông có đụn cát ở đáy thì tại Tân Châu (An Giang) bình quân cao nhất với khoảng 30m3 cát/1m ngang rộng sông/năm. Ngược lại, Cần Thơ với khoảng 9m3/m ngang sông/năm, dưới 4m3/m ngang sông/năm đối với Châu Đốc, không tìm thấy các đụn cát ở Mỹ thuận (Vĩnh Long) đạt yêu cầu để nghiên cứu.
Dù hoạt động khai thác cát ở ĐBSCL hiện nay là không bền vững, việc ngưng khai thác cát ngay lập tức là không khả thi bởi cát sông là đầu vào quan trọng cho nền kinh tế của vùng nhằm phục vụ cho việc xây dựng cao tốc, tỉnh lộ, san lấp mặt bằng cho cá dự án nhà ở, khu công nghiệp... Vì vậy việc xây dựng ngân hàng cát là rất cần thiết hiện nay. Ngân hàng cát là khoảng chênh lệch giữa khối lượng cát sông được vận chuyển về từ thượng nguồn với lượng cát khai thác trên toàn đồng bằng, cũng như lượng cát đổ ra biển) của ÐBSCL đã cho thấy hằng năm lượng trầm tích bị thâm hụt khoảng 25 triệu tấn do khai thác cát và bị giữ lại do các nhà máy thủy điện được xây dựng.
Một điểm khai thác cát trên sông Hậu ở An Giang. Ảnh: Lê Hoàng Vũ
Theo ông Trần Tuấn Anh, hiện nay tại Việt Nam việc phát triển các vật liệu thay thế cát sông đang còn rất non trẻ ở Việt Nam. Vật liệu thay thế cát sông phổ biến nhất hiện nay là cát nghiền (cát nhân tạo), đây là cát được nghiền ra từ đá vôi, đá granite được sử dụng rất phổ biến để sản xuất bê tông đúc, hay xây dựng đập ở các công trình đập thủy điện. Ngoài ra, có một số doanh nghiệp ở TP HCM hiện đang sử dụng thạch cao để thay cho cát sử dụng trong trát tường, hay sử dụng xốp đặc biệt thay thế một lượng lớn cát trong đổ bê tông trần nhà cao tầng.
Tuy nhiên, vật liệu thay thế cát sông vẫn chưa được đưa vào danh mục vật liệu có thể sử dụng cho các công trình được đầu tư bằng vốn nhà nước nên các chủ đầu tư chưa thể mua sắm mà vẫn phụ thuộc vào cát sông. Hơn nữa, nguồn vật liệu thay thế cát sông ở miền Nam nói chung và ĐBSCL nói riêng rất hạn chế, nên cần giải pháp về công nghệ xây dựng để giảm thiểu lượng cát tiêu thụ trên một đơn vị diện tích mặt sàn cùng với phát triển vật liệu thay thế.
Như vậy, cần một khoảng thời gian và sự hỗ trợ của nhà nước để thúc đẩy nghiên cứu, phát triển vật liệu thay thế cát sông. WWF-Việt Nam đang cùng tư vấn quốc tế thực hiện nghiên cứu về vật liệu thay thế cát sông bền vững và sẽ công bố báo cáo cuối cùng vào cuối tháng 11 đến đầu tháng 12/2022.
Hiện nay, An Giang và Đồng Tháp là một trong những tỉnh có tổng số điểm sạt lở nghiêm trọng cao nhất khu vực ĐBSCL. Ảnh: Lê Hoàng Vũ
Theo báo cáo của Ủy hội sông Mekong công bố năm 2018, tổng lượng trầm tích (bao gồm cát) đổ về sông Tiền và sông Hậu đang ngày càng giảm dần và dự kiến chỉ còn khoảng 4,5 triệu tấn trầm tích vào năm 2040. Việc thiếu hụt trầm tích do thủy điện và khai thác cát không bền vững là những nguyên nhân dẫn đến xói mòn đáy sông, kéo theo sạt lở bờ sông Tiền và sông Hậu. Kết hợp với khai thác nước ngầm quá mức và hệ thống đê ngăn lũ trên diện rộng dẫn đến xói mòn bờ biển, xâm nhập mặn, triều cường ngày càng nghiêm trọng. |
Theo nongnghiep.vn
Ý kiến góp ý: